Jump to content

User:Karoosa/sandbox: Difference between revisions

From Wikipedia, the free encyclopedia
Content deleted Content added
No edit summary
Tag: speedy deletion template removed
Blanked the page
Tag: Blanking
 
Line 1: Line 1:
{{pp-semi|small=yes}}
{{1000 bài cơ bản}}
{{otheruses5|Liên bang Nga|Liên Xô|Liên Xô}}
{{Current related|2=Nga xâm lược Ukraina 2022}}
{{Coord|60|N|90|E|display=title}}
{{Infobox country
| conventional_long_name = Liên bang Nga
| common_name = Nga
| linking_name = Nga
| native_name = {{native name|ru|Российская Федерация}}<br>{{small|''Rossiyskaya Federatsiya''}}
| image_flag = Flag of Russia.svg
| image_coat = Coat of Arms of the Russian Federation.svg
| national_anthem = <br />Gosudarstvenny gimn<br />Rossiyskoy Federatsii<br>[[Quốc ca Nga|"Государственный гимн<br />Российской Федерации"]]<br />({{Lang-vi|"Quốc ca Liên bang Nga"}})<br /> <center>[[Tập tin:National Anthem of Russia (2000), instrumental, one verse.ogg]]</center>
| image_map = Russian Federation (orthographic projection) - Annexed Territories disputed.svg
| map_width = 220px
| map_caption = Vị trí Liên bang Nga (xanh đậm) trên thế giới và các vùng đang chiếm đóng hoặc có tranh chấp (xanh nhạt)
| capital = [[Tập tin:Coat of arms of Moscow.svg|22px]] [[Moskva]] (''Москва'')
| coordinates = {{Coord|55|45|N|37|37|E|type:city}}
| largest_city = thủ đô
| languages_type = {{nowrap|[[Ngôn ngữ chính thức]]}}<br/>{{nobold|và ngôn ngữ quốc gia}}
| languages = [[Tiếng Nga]]
| languages2_type = {{nowrap|[[Ngôn ngữ quốc gia]]}}<br/>{{nobold|được công nhận}}
| languages2 = Xem [[Ngôn ngữ tại Nga]]
| ethnic_groups = {{unbulleted list
| 81,0% [[Người Nga]]
| 3,7% [[Người Thát Đát]]
| 1,4% [[Người Ukraina ở Nga|Người Ukraina]]
| 1,1% [[Người Bashkir]]
| 1,2% [[Người Armenia]]
| 1,0% [[Người Chuvash]]
| 0,8% [[Người Chechnya]]
| | {{nowrap|11,0% khác {{\}}<br/>không xác định}}
}}
| ethnic_groups_year = 2010
| ethnic_groups_ref = <ref name="perepis-2010.ru">{{chú thích web|url=http://www.perepis-2010.ru/results_of_the_census/result-december-2011.ppt|archive-url=https://web.archive.org/web/20120118212344/http://www.perepis-2010.ru/results_of_the_census/result-december-2011.ppt|archive-date=ngày 18 tháng 1 năm 2012|title=ВПН-2010|website=perepis-2010.ru}}</ref>
| demonym = [[Người Nga]]
| government_type = [[Cộng hòa lập hiến]] [[Cộng hòa liên bang|liên bang]] [[Bán tổng thống chế]] <ref>[[s:Hiến pháp Liên bang Nga]]</ref><ref name="Krzywdzinski">{{cite book | author = Martin Krzywdzinski |year= 2020 | title = Consent and Control in the Authoritarian Workplace: Russia and China Compared | publisher = [[Oxford University Press]] | pages = 252– | isbn = 978-0-19-252902-2 | oclc = 1026492383 | url = {{GBurl|id=gz5MDwAAQBAJ|p=252}}|quote=''officially a democratic state with the rule of law, in practice an authoritarian dictatorship''}}</ref><ref>{{cite web | title=Russia: Freedom in the World 2023 Country Report | website=Freedom House | date=9 March 2023 | url=https://freedomhouse.org/country/russia/freedom-world/2023 | access-date=17 April 2023 | archive-date=11 March 2023 | archive-url=https://web.archive.org/web/20230311093511/https://freedomhouse.org/country/russia/freedom-world/2023 | url-status=live }}</ref><ref name="cia"/><ref name="Kuzio-2016"/> <!--- Before adding [[Dominant-party system]] here, discuss in the talk page, additions before any consensus will be challenged and removed. --->
| leader_title1 = [[Tổng thống Nga|Tổng thống]]
| leader_name1 = [[Vladimir Putin]]
| leader_title2 = [[Thủ tướng Nga|Thủ tướng]]
| leader_name2 = [[Mikhail Mishustin]]
| leader_title3 = [[Chủ tịch Hội đồng Liên bang (Nga)|Chủ tịch Hội đồng Liên bang]]
| leader_name3 = [[Valentina Matviyenko]]
| leader_title4 = [[Chủ tịch Duma Quốc gia|Chủ tịch Duma]]
| leader_name4 = [[Vyacheslav Volodin]]
| legislature = [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]]
| upper_house = [[Hội đồng Liên bang (Nga)|Hội đồng Liên bang]]
| lower_house = [[Duma Quốc gia]]
| sovereignty_type = [[Lịch sử Nga|Hình thành]]
| established_event1 = Giai đoạn [[Rurik]]<ref>{{chú thích web|url=http://www.1150russia.ru/ukaz-prezidenta-rf-o-prazdnovanii-1150-letiya-zarozhdeniya-rossiyskoy-gosudarstvennosti.html |script-title=ru:Указ Президента РФ "О праздновании 1150-летия зарождения российской государственности" |trans-title=Presidential Decree "On celebrating the 1150th anniversary of Russian statehood" |language=ru |date=ngày 3 tháng 3 năm 2011 |website=www.1150russia.ru |publisher={{lang|ru| Комитет культуры Новгородской области}} (Novgorod Region Culture Committee) |access-date =ngày 20 tháng 10 năm 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140714233159/http://www.1150russia.ru/ukaz-prezidenta-rf-o-prazdnovanii-1150-letiya-zarozhdeniya-rossiyskoy-gosudarstvennosti.html |archive-date=ngày 14 tháng 7 năm 2014 |url-status=dead}}</ref>
| established_date1 = 862
| established_event2 = [[Rus' Kiev]]
| established_date2 = 882
| established_event3 = [[Đại công quốc Moskva]]
| established_date3 = 1283
| established_event4 = [[Nước Nga Sa hoàng]]
| established_date4 = 16 tháng 1 năm 1547
| established_event5 = [[Đế quốc Nga]]
| established_date5 = 22 tháng 10 năm 1721
| established_event6 = [[Cộng hòa Nga]]
| established_date6 = 14 tháng 9 năm 1917
| established_event7 = [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Nga Xô viết]]
| established_date7 = [[Cách mạng Tháng Mười|7 tháng 11 năm 1917]]{{#tag:ref |25 tháng 10, lịch cũ}}
| established_event8 = [[Liên Xô]]
| established_date8 = [[Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô|30 tháng 12 năm 1922]]
| established_event9 = [[Ngày nước Nga|Tuyên bố]]
| established_date9 = [[Tuyên bố chủ quyền nhà nước của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|12 tháng 6 năm 1990]]
| established_event10 = [[Hiệp ước Belovezh|Tuyên bố CIS]]
| established_date10 = 8 tháng 12 năm 1991{{Efn|[[Xô viết Tối cao Nga|Liên Xô Tối cao Nga Xô viết]] đã phê chuẩn hiệp định vào ngày 12 tháng 12, tố cáo hiệp ước 1922.}}
| established_event11 = Liên bang Nga
| established_date11 = 25 tháng 12 năm 1991{{Efn|Vào ngày 25 tháng 12, Nga Xô viết được đổi tên thành Liên bang Nga và ngày hôm sau [[Xô viết Tối cao Liên Xô]] đã phê chuẩn hiệp định, giải thể Liên Xô một cách hiệu quả.}}
| established_event12 = [[Hiến pháp Liên bang Nga|Hiến pháp hiện hành]]
| established_date12 = 12 tháng 12 năm 1993
| established_event13 = [[Liên bang Quốc gia|Liên bang]] với [[Belarus]]
| established_date13 = 2 tháng 4 năm 1996
| area_km2 = 17098246
| area_footnote = <ref>{{cite web |url=https://unstats.un.org/unsd/publications/pocketbook/files/world-stats-pocketbook-2016.pdf#page=182 |title=World Statistics Pocketbook 2016 edition |publisher=United Nations Department of Economic and Social Affairs. Statistics Division |date= |access-date =ngày 24 tháng 4 năm 2018 |quote=}}</ref> {{small|(chưa tính [[Krym]])}}{{efn|name="Areanote"|Khi bao gồm [[Cộng hòa Krym]] và [[Sevastopol]], tổng diện tích của Nga tăng lên {{convinfobox|17125191|km2||sqmi}}<ref>{{chú thích web|url=https://rosreestr.ru/upload/Doc/18-upr/Сведения%20по%20ф.22%20за%202016%20год%20(по%20субъектам%20РФ)_на%20сайт.doc|script-title=ru:Сведения о наличии и распределении земель в Российской Федерации на ngày 1 tháng 1 năm 2017 (в разрезе субъектов Российской Федерации)|title=Thông tin về tính khả dụng và phân phối đất đai tại Liên bang Nga kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017 (theo các chủ đề liên bang của Nga|website=[[Rosreestr]]|ngày truy cập=2022-03-17|archive-date = ngày 23 tháng 3 năm 2019 |archive-url=https://web.archive.org/web/20190323171458/https://rosreestr.ru/upload/Doc/18-upr/%25D0%25A1%25D0%25B2%25D0%25B5%25D0%25B4%25D0%25B5%25D0%25BD%25D0%25B8%25D1%258F%2520%25D0%25BF%25D0%25BE%2520%25D1%2584.22%2520%25D0%25B7%25D0%25B0%25202016%2520%25D0%25B3%25D0%25BE%25D0%25B4%2520(%25D0%25BF%25D0%25BE%2520%25D1%2581%25D1%2583%25D0%25B1%25D1%258A%25D0%25B5%25D0%25BA%25D1%2582%25D0%25B0%25D0%25BC%2520%25D0%25A0%25D0%25A4)_%25D0%25BD%25D0%25B0%2520%25D1%2581%25D0%25B0%25D0%25B9%25D1%2582.doc|url-status=dead}}</ref>}}
| area_rank = 1
| percent_water = 13<ref name=gen>{{chú thích web|title=The Russian federation: general characteristics |url=http://www.gks.ru/scripts/free/1c.exe?XXXX09F.2.1/010000R |archive-url=https://web.archive.org/web/20110728064121/http://www.gks.ru/scripts/free/1c.exe?XXXX09F.2.1%2F010000R |archive-date=ngày 28 tháng 7 năm 2011 |website=Federal State Statistics Service |access-date =ngày 5 tháng 4 năm 2008 |url-status=dead}}</ref>&nbsp;{{small|(bao gồm vùng đầm lầy)}}
| population_estimate = {{DecreaseNeutral}} 147,182,123 (bao gồm 2.482.450 ở Crimea<ref>{{cite web |url=https://rosstat.gov.ru/vpn_popul# |archive-url=https://web.archive.org/web/20200124160257/http://rosstat.gov.ru/vpn_popul |url-status=dead |archive-date=24 January 2020 |script-title=ru:Том 1. Численность и размещение населения |language=ru |work=[[Federal State Statistics Service (Russia)|Russian Federal State Statistics Service]] |access-date=3 September 2022 }}</ref>)
| population_estimate_year = 2022
| population_estimate_rank = 9
| population_density_km2 = 8,4
| population_density_sq_mi = 21,5
| population_density_rank = 187
| GDP_PPP = 5,473 nghìn tỷ USD<ref name="IMFWEO.RU">{{cite web |url=https://www.imf.org/en/Publications/WEO/weo-database/2024/April/weo-report?c=922,&s=NGDPD,PPPGDP,NGDPDPC,PPPPC,&sy=2022&ey=2029&ssm=0&scsm=1&scc=0&ssd=1&ssc=0&sic=0&sort=country&ds=.&br=1 |title=World Economic Outlook Database, April 2024 Edition. (Russia) |publisher=[[International Monetary Fund]] |website=www.imf.org |date=16 April 2024 |access-date=16 April 2024}}</ref>
| GDP_PPP_year = 2024
| GDP_PPP_rank = 6
| GDP_PPP_per_capita = 38.292 USD<ref name="IMFWEO.RU"/>
| GDP_PPP_per_capita_rank = 60
| GDP_nominal = 2,057 nghìn tỷ USD<ref name="IMFWEO.RU"/>
| GDP_nominal_year = 2024
| GDP_nominal_rank = 11
| GDP_nominal_per_capita = 14,391 USD<ref name="IMFWEO.RU"/>
| GDP_nominal_per_capita_rank = 72
| Gini = 36 <!--number only-->
| Gini_year = 2020
| Gini_change = decrease
| Gini_ref = <ref>{{cite web |url=https://data.worldbank.org/indicator/SI.POV.GINI?locations=RU |title=GINI index (World Bank estimate) – Russian Federation |publisher=World Bank |access-date=23 June 2022 |archive-date=20 April 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170420201540/https://data.worldbank.org/indicator/SI.POV.GINI?locations=RU |url-status=live }}</ref>
| Gini_rank = 84
| HDI = 0.821<!--number only-->
| HDI_year = 2022
| HDI_change = increase <!--increase/decrease/steady-->
| HDI_ref = <ref name="UNHDR">{{cite web|url=https://hdr.undp.org/system/files/documents/global-report-document/hdr2023-24reporten.pdf|title=Human Development Report 2023/24|language=en|publisher=[[United Nations Development Programme]]|date=13 March 2024|access-date=13 March 2024|archive-date=13 March 2024|archive-url=https://web.archive.org/web/20240313164319/https://hdr.undp.org/system/files/documents/global-report-document/hdr2023-24reporten.pdf|url-status=live}}</ref>
| HDI_rank = 56
| currency = [[Rúp Nga]] ([[Ký hiệu rúp|₽]])
| currency_code = RUB
| utc_offset = +2 đến +12
| date_format = nn-tt-nnnn
| drives_on = phải
| calling_code = [[Số điện thoại ở Nga|+7]]
| iso3166code = RU
<!-- | ISO_3166–1_alpha2 = RU
| ISO_3166–1_alpha3 = RUS
-->| sport_code =
| vehicle_code =
| cctld = {{unbulleted list |[[.ru]] |[[.su]] (dự phòng) |[[.рф]]}}
| religion = [[Tôn giáo ở Nga|Xem ''Tôn giáo ở Nga'']]
| today =
}}
'''Nga''' ({{lang-rus|Россия|r=Rossiya}} {{IPA-ru|rɐˈsʲijə|IPA|Ru-Rossiya.ogg}}), tên đầy đủ là '''Liên bang Nga'''<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-02.htm|ngày truy cập=2009-06-25}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The CIA World Fact Book, "Russia"|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rs.html|ngày truy cập=2009-06-25|archive-date=2015-07-03|archive-url=https://web.archive.org/web/20150703195129/https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/rs.html|url-status=dead}}</ref> ({{lang-rus|Российская Федерация|r=Rossiyskaya Federatsiya}} {{IPA-ru|rɐˈsʲijskəjə fʲɪdʲɪˈraʦəjə|IPA|Ru-Rossiyskaya Federatsiya Rossiya.ogg}}, viết tắt là '''RF''') là một quốc gia [[Cộng hòa liên bang]], nằm ở phía Bắc của [[lục địa Á-Âu|lục địa Á - Âu]]<ref name=britannica>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/513251/Russia|tiêu đề=Russia|nhà xuất bản=Encyclopedia Britannica|ngày truy cập=ngày 31 tháng 1 năm 2008}}</ref> Với [[chủ thể liên bang của Nga|85 thực thể liên bang]] và diện tích 17,098,246&nbsp;km² (6,601,670 [[Dặm vuông Anh|mi²]]), Nga là [[Danh sách quốc gia theo diện tích|nước có diện tích lớn nhất thế giới]], bao phủ gần 1/9 diện tích lục địa [[Trái Đất]]. Nga cũng là [[Danh sách quốc gia theo dân số|nước đông dân thứ 9]] thế giới với 145,8 triệu người (2020). Lãnh thổ Nga kéo dài toàn bộ [[Bắc Á]] và 40% [[Châu Âu]], bao gồm 11 múi giờ và sở hữu nhiều loại môi trường, địa hình. Nga có trữ lượng [[khoáng sản]] và [[năng lượng]] lớn nhất thế giới - được coi là một trong những [[siêu cường năng lượng]].<ref>{{Chú thích web|url=http://encarta.msn.com/encyclopedia_761569000_4/Russia.html|tiêu đề="Russia"|họ 1=Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007|archive-url=https://web.archive.org/web/20091028092554/http://encarta.msn.com/encyclopedia_761569000_4/Russia.html|archive-date = ngày 28 tháng 10 năm 2009 |url-status=dead|ngày truy cập=ngày 26 tháng 12 năm 2007}}</ref><ref>{{Chú thích web |url=http://www.thefirstpost.co.uk/4883,news-comment,news-politics,beware-russia-energy-superpower |ngày truy cập=2009-10-11 |tựa đề=First Post; Beware Russia Energy Superpower, ngày 12 tháng 10 năm 2006 |archive-date = ngày 11 tháng 10 năm 2009 |archive-url=https://web.archive.org/web/20091011081110/http://www.thefirstpost.co.uk/4883,news-comment,news-politics,beware-russia-energy-superpower |url-status=live }}</ref><ref>[http://edition.cnn.com/2006/WORLD/europe/12/12/russia.oil/index.html CNN, "Russia; A superpower rises again" by Simon Hooper. Tháng 12, 2006]</ref><ref>CNN; "Eye on Russia: Russia's resurgence" by Matthew Chance. June 2007 [http://edition.cnn.com/2007/WORLD/europe/06/18/chance.intro/]</ref>

Nga đã thiết lập tầm ảnh hưởng trên khắp thế giới vào thế kỷ 19, từ thời [[Đế quốc Nga]]. Dưới thời kỳ [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]], [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|nhà nước xã hội chủ nghĩa]] đầu tiên trên thế giới, [[Liên Xô]] được công nhận là một trong hai [[Siêu cường quốc|siêu cường]] trên thế giới thời đó cùng với [[Hoa Kỳ]]<ref>{{Chú thích web | url = http://books.google.com/books?id=XXcVAAAAIAAJ&pg=PA4 | tiêu đề = Contemporary Soviet Military Affairs | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 24 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = Google Books | ngôn ngữ = }}</ref>, đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong thắng lợi của [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|Khối Đồng Minh]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]]<ref name="Weinberg, G.L. 1995 264">{{Chú thích sách|title=A World at Arms: A Global History of World War II|url=https://archive.org/details/worldatarmsgloba0000gerh|author=Weinberg, G.L.|publisher=Cambridge University Press|year=1995|isbn=0521558794|page=[https://archive.org/details/worldatarmsgloba0000gerh/page/264 264]}}</ref><ref name="theage.com.au">Osbourne, Andrew, [http://www.theage.com.au/news/World/World-leaders-gather-as-Russia-remembers/2005/05/08/1115491042992.html World leaders gather as Russia remembers]. The Age</ref><ref name="Who won World War II">Rozhnov, Konstantin, [http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/4508901.stm Who won World War II?]. BBC. Russian historian Valentin Falin</ref>. Liên bang Nga được thành lập kể từ sau khi [[Liên Xô tan rã]] vào năm 1991 và được công nhận là sự kế tục pháp lý của [[Nhà nước Xô viết (hệ thống chính phủ)|Nhà nước Xô viết]].<ref name=uk/>

Năm 2024, Liên bang Nga với 147 triệu dân có quy mô [[Kinh tế Nga|nền kinh tế]] [[Danh sách quốc gia theo GDP (danh nghĩa)|lớn thứ 11]] thế giới theo [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP danh nghĩa]] hoặc [[Danh sách quốc gia theo GDP (PPP)|đứng thứ 6]] toàn cầu theo [[sức mua tương đương]]. GDP danh nghĩa theo thống kê của [[Quỹ Tiền tệ Quốc tế|IMF]] đạt 2,057 nghìn tỷ [[Đô la Mỹ|USD]], xếp hạng 11 thế giới<ref name="IMFWEO.RU"/> GDP theo sức mua [[tương đương]] (PPP) đạt 5,473 nghìn tỷ USD, đứng hạng 6 thế giới sau Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật và Đức.<ref name="IMFWEO.RU">{{cite web |url=https://www.imf.org/en/Publications/WEO/weo-database/2024/April/weo-report?c=922,&s=NGDPD,PPPGDP,NGDPDPC,PPPPC,&sy=2022&ey=2029&ssm=0&scsm=1&scc=0&ssd=1&ssc=0&sic=0&sort=country&ds=.&br=1 |title=World Economic Outlook Database, April 2024 Edition. (Russia) |publisher=[[International Monetary Fund]] |website=www.imf.org |date=16 April 2024 |access-date=16 April 2024}}</ref> Cũng theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, [[thu nhập bình quân đầu người]] của Nga theo sức mua tương đương là 38,292 USD/người, xếp thứ 60 thế giới<ref name="IMFWEO.RU" /> Nga có ngân sách quốc phòng lớn thứ 3 thế giới vào năm 2024<ref name="SIPRI-2020">{{Cite web |date=April 2024 |title=Trends in Military Expenditure 2023 |url=https://www.sipri.org/sites/default/files/2024-04/2404_fs_milex_2023.pdf#page=2 |access-date=22 April 2024 |publisher=[[Stockholm International Peace Research Institute]]}}</ref> Đây là một trong những [[Các nước có vũ khí hạt nhân| nước sở hữu vũ khí hạt nhân]] và đồng thời sở hữu kho [[vũ khí hủy diệt hàng loạt]] lớn nhất thế giới.<ref name=fas>{{Chú thích web|tiêu đề=Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities|nhà xuất bản=Federation of American Scientists|url=https://fas.org/nuke/guide/summary.htm |ngày=March 2008 |ngày truy cập=ngày 19 tháng 3 năm 2014}}</ref> Nga là thành viên thường trực của [[Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc]], [[G20 (nhóm các nền kinh tế lớn)|G20]], [[Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương|APEC]], [[Tổ chức Hợp tác Thượng Hải|SCO]], [[Cộng đồng Kinh tế Á Âu|EurAsEC]] và lãnh đạo của [[Cộng đồng các Quốc gia Độc lập]]. Nga cũng như tiền thân Liên Xô có truyền thống lâu đời trong nhiều lĩnh vực khoa học, văn hóa, nghệ thuật,<ref name="britannica" /> bao gồm những thành tựu quan trọng đầu tiên về công nghệ [[Vũ khí hạt nhân|hạt nhân]], [[vũ trụ]]. Nga cũng là một cường quốc quân sự.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.globalfirepower.com/countries-listing.asp|tựa đề=2021 Military Strength Ranking|họ=Global Fire Power|website=www.globalfirepower.com}}</ref>

Mặc dù vậy, Nga hiện nay cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức như nền kinh tế không còn vị thế siêu cường thế giới như thời [[Liên Xô]]<ref>{{Chú thích web|url=https://www.investopedia.com/updates/top-developing-countries/#:~:text=Russia%20is%20not%20currently%20classified,implosion%20of%20the%20Soviet%20Union.|tựa đề=Top 25 Developed and Developing Countries|họ=Investopedia|ngày=2019-11-21|website=www.investopedia.com}}</ref>, tỷ lệ [[Danh sách các nước theo tỷ lệ giết người cố ý| tội phạm]] và tự sát [[Danh sách quốc gia theo tỷ lệ tự sát|cao]], [[Khủng bố|chủ nghĩa khủng bố]], [[xung đột sắc tộc]], [[Tham nhũng ở Nga| tham nhũng]], và các lệnh trừng phạt, [[cấm vận]] từ phía [[Hoa Kỳ]], [[NATO]], [[Khối Đồng minh không thuộc NATO|đồng minh]] cùng [[Liên minh châu Âu]].<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/eu-keo-dai-trung-phat-nga-4302419.html|tựa đề=EU kéo dài trừng phạt Nga|tác giả=Phương Vũ (Theo AFP)|ngày=2021-6-30|website=Báo điện tử VnExpress|url-status=live}}</ref> Đặc biệt, sự sụt giảm và lão hóa dân số do [[Danh sách các nước theo tỷ lệ giới tính|chênh lệch giới tính]] cùng tỉ lệ sinh giảm đang là vấn đề lớn của nước Nga<ref>{{Chú thích web|url=https://tuoitre.vn/nga-dau-dau-vi-phu-nu-thi-dong-dan-ong-thi-thieu-20190826104607856.htm|tựa đề=Nga đau đầu vì phụ nữ thì đông, đàn ông thì thiếu|tác giả=PHÚC LONG|ngày=2019-8-26|website=Tuổi Trẻ Online}}</ref> Để ngăn chặn vấn đề này, Nga đã ban hành một loạt các biện pháp, bao gồm việc ban hành luật cấm mọi hình thức tuyên truyền, cổ vũ cho [[đồng tính luyến ái]] và [[hôn nhân đồng tính]]<ref>{{cite web | url = https://www.lifesitenews.com/news/russia-will-deport-foreigners-for-homosexual-propaganda-duma-passes-bill-43 | title= Russia will deport foreigners for homosexual propaganda; Duma passes bill 436 | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2024 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>, cấm phẫu thuật [[chuyển giới]] đối với những người không bị dị tật bẩm sinh<ref>{{ Cite news |title=Russian president signs legislation marking the final step outlawing gender-affirming procedures |url=https://apnews.com/article/russia-lgbtq-transgender-procedures-banned-21b88f53b9a74a646400d63ce93bde6f |access-date=25 July 2023 |work=AP News |date=24 July 2023 |language=en}}</ref><ref>{{Cite news |last=Rose |first=Scott |title=Putin signs law banning gay 'propaganda' among children |url=https://www.bloomberg.com/news/2013-06-30/putin-signs-law-banning-gay-propaganda-among-children.html |newspaper=Bloomberg |date=1 July 2013 }}</ref> Các bộ luật này nhằm mục đích bảo vệ văn hóa truyền thống của nước Nga, ngăn chặn tư tưởng phá hủy nền tảng [[đạo đức]] - [[gia đình]] do phương Tây truyền bá, và bảo vệ thanh thiếu niên được phát triển lành mạnh về tâm lý (bởi nhiều trường hợp đồng tính luyến ái không phải do bẩm sinh mà do ảnh hưởng từ [[môi trường xã hội]])<ref>{{ Cite news |title=President Putin Signs New Law Against Transgender, Banning Sex Change In Russia |url=https://saharareporters.com/2023/07/24/president-putin-signs-new-law-against-transgender-banning-sex-change-russia |access-date=25 July 2023 |work=Sahara Reporters |date=24 July 2023 |language=en}}</ref>.

== Nguồn gốc tên gọi ==
{{main|Tên của Rus', Nga và Ruthenia}}

=== Tên tiếng Nga ===
Tên gọi ''Rossiya'' có nguồn gốc từ [[Rus Kiev|Rus]], một quốc gia thời Trung Cổ có dân cư chủ yếu là [[người Đông Slav]]. Tuy nhiên, bản thân tên gọi này chỉ mới xuất hiện trong các sử liệu khá gần đây, còn cư dân của quốc gia này thời đó gọi đất nước của họ là "Русская Земля" (russkaya zemlya), có thể tạm dịch là "Xứ sở của người Rus'". Các sử gia hiện đại gọi quốc gia này là "Rus Kiev" để phân biệt nó với các quốc gia hậu thân. Bản thân danh xưng ''Rus'' có nguồn gốc từ [[tên dân tộc|tộc danh]] của [[người Rus]], một phân nhóm của [[người Varangia|tộc Varangia]] (họ có lẽ chính là người [[Viking]] [[người Swede (bộ lạc German)|Swede]]),<ref>{{Chú thích web|url=http://www.etymonline.com/index.php?term=Russia |tiêu đề=Online Etymology Dictionary |nhà xuất bản=Etymonline.com |ngày truy cập=ngày 2 tháng 11 năm 2011}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.thefreedictionary.com/rus |tiêu đề=Rus – definition of Rus by the Free Online Dictionary, Thesaurus and Encyclopedia |nhà xuất bản=Thefreedictionary.com |ngày truy cập=ngày 2 tháng 11 năm 2011}}</ref> những người có công thành lập quốc gia Rus (Русь).

Phiên bản Latinh cổ của cái tên Rus' là [[Ruthenia]], chủ yếu được dùng để chỉ các vùng phía tây và phía nam của Rus' - những nơi gần kề với [[châu Âu]] theo Công giáo. Tên gọi hiện nay của quốc gia, Россия (Rossiya), bắt nguồn từ tên gọi [[tiếng Hy Lạp Trung đại]] của Rus Kiev, Ρωσσία ''Rossía''— viết là Ρωσία (''Rosía'' {{IPA-el|roˈsia|pron}}) trong [[tiếng Hy Lạp hiện đại]].<ref>{{chú thích sách |title=The Russians: The People of Europe |last=Milner-Gulland |first=R. R. |year=1997 |publisher=Blackwell Publishing |isbn=0-631-21849-1 |pages=1–4 |url=http://books.google.com/?id=BgJjHFwmj2UC&pg=PA1}}</ref>

=== Tên tiếng Việt ===
Hiện tại, quốc hiệu thông dụng của nước Nga trong [[Tiếng Trung Quốc|tiếng Trung]] là "Nga La Tư" (俄羅斯, éluósì). Về nguồn gốc của từ "Nga La Tư", có thuyết cho rằng: vào trước thời [[nhà Nguyên]], khi người Mông Cổ tiếp xúc với quốc gia này, do tiếng [[Mông Cổ]] không có phụ âm "r" đứng đầu, để tiện cho việc phát âm nên đã lặp lại nguyên âm trong âm thứ nhất của từ. Россия (Rossiya) vì thế biến đổi thành оРоссия (oRossiya), đến thời Nguyên thì người Mông Cổ sử dụng dịch danh Hán tự là "Oát La Tư" (斡羅思, wòluósì), phiên âm từ "o-Ro-ssi" và bỏ "ya". Những năm đầu thời [[nhà Thanh]], trong nhiều văn hiến có sử dụng tên gọi "La Sát" (羅剎), song khi xưng hô giữa quốc gia với nhau thì phần nhiều dịch là Ngạc La Tư (鄂羅斯) hoặc Nga La Tư (俄羅斯). Vào những năm Càn Long thời Thanh, khi soạn "Tứ khố toàn thư" thì chính thức thay đổi thành Nga La Tư (俄羅斯, éluósì).<ref>{{Chú thích web |url=http://www.jhlt.net.cn/CN/article/downloadArticleFile.do?attachType=PDF&id=8370 |ngày truy cập=2014-02-24 |tựa đề=《俄罗斯国家名称变迁考》,郭文深著,江淮论坛2010年3期 |archive-date=2014-01-08 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140108134614/http://www.jhlt.net.cn/CN/article/downloadArticleFile.do?attachType=PDF&id=8370 |url-status=dead }}</ref> Do vậy theo phân tích trên thì chữ "Nga" lại không phiên âm cho âm tiết nào trong từ "Rossiya" cả.

== Lịch sử ==
{{chính|Lịch sử Nga}}
{{Lịch sử Nga}}
Lịch sử của nước Nga bắt đầu từ lịch sử [[Đông Slav]]. Nhà nước [[Đông Slav]] đầu tiên, nước [[Rus' Kiev]], đã chấp nhận việc du nhập [[Kitô giáo|Ki-tô giáo]] từ [[Đế quốc Đông La Mã]] vào năm [[988]] <ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Kievan Rus' and Mongol Periods|url=http://www.shsu.edu/~his_ncp/Kievan.html|work=Đại học bang Sam Houston|ngày truy cập=ngày 20 tháng 7 năm 2007|archive-date = ngày 27 tháng 9 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20070927230631/http://www.shsu.edu/~his_ncp/Kievan.html|url-status=dead}}</ref> khởi đầu sự tổng hòa các nền văn hoá Đông La Mã và [[Người Slav|Slav]] lập ra văn hoá Nga trong một nghìn năm tiếp theo.<ref name="Curtis">[http://www.shsu.edu/~his_ncp/Kievan.html Kievan Rus' and Mongol Periods] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070927230631/http://www.shsu.edu/~his_ncp/Kievan.html|date=ngày 27 tháng 9 năm 2007}}, trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), ''Russia: A Country Study'', Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.</ref> Nước Rus' Kiev nhanh chóng tan rã không còn là một Nhà nước nữa, cuối cùng chịu đầu hàng quân xâm lược [[Đế quốc Mông Cổ|Mông Cổ]] trong những năm 1230. Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Rus' Kiev.

Sau thế kỷ XIII, [[Moskva]] dần trở thành trung tâm văn hoá. Tới thế kỷ XVIII, [[Đại công quốc Moskva]] đã trở thành [[Đế quốc Nga]] rộng lớn, trải dài từ [[Ba Lan]] về phía đông tới [[Thái Bình Dương]]. Sự mở rộng về phía tây càng khiến nước Nga nhận thức được sự khác biệt của họ với đa phần còn lại của châu Âu và phá vỡ sự cô lập từng xảy ra ở những giai đoạn đầu mở rộng. Thời này có Nga hoàng [[Pyotr I của Nga|Pyotr Đại Đế]] xóa bỏ một nước Nga lạc hậu, nửa Á Đông, tiến hành sự nghiệp lớn lao đổi mới đất nước.<ref>Christopher Duffy, ''Borodino and the War of 1812'', trang 36</ref><ref>Christopher Duffy, ''Borodino and the War of 1812'', trang 46</ref> Các vị Nữ hoàng [[Anna của Nga|Anna]], [[Elizaveta của Nga|Elizaveta Petrovna]] và [[Ekaterina II của Nga|Ekaterina II]] đều lên ngôi với những cuộc đảo chính do Ngự Lâm quân hỗ trợ.<ref>Christopher Duffy, ''The military experience in the age of reason'', trang 41</ref> Với chính sách bành trướng, phát triển thực lực của đất nước, triều đình [[Sa hoàng|Nga hoàng]] đã phá bỏ mối đe dọa từng có từ Vương quốc [[Thụy Điển]] và [[Đế quốc Ottoman|Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman]]. Các triều đại nối tiếp nhau trong thế kỷ XIX đã đối phó với những áp lực đó bằng sự kết hợp giữa các cuộc cải cách miễn cưỡng và trấn áp. Chế độ [[nông nô Nga]] đã bị [[Cải cách giải phóng năm 1861 tại Nga|bãi bỏ năm 1861]], nhưng sự huỷ bỏ này thực sự chỉ gây thêm phiền toái cho người [[nông dân]] và càng khiến áp lực cách mạng tăng cao. Trong khoảng thời gian từ khi chế độ nông nô bị huỷ bỏ tới khi bắt đầu [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh thế giới lần thứ nhất]] năm 1914, các cuộc [[cải cách Stolypin]], [[Hiến pháp Nga năm 1906|hiến pháp 1906]] và [[Đuma Quốc gia|Duma quốc gia]] đã mang lại những thay đổi đáng kể cho nền kinh tế và chính trị Nga,<ref>Xem Jacob Walkin, ''The Rise of Democracy in Pre-Revolutionary Russia: Political and Social Institutions under the Last Three Czars'', Praeger, 1962.</ref> nhưng các hoàng đế Nga vẫn không muốn rời bỏ quyền lực [[Chế độ chuyên quyền|tuyệt đối]], hay chia sẻ quyền lực.<ref>[http://www.ciaonet.org/atlas/countries/ru_data_loc.html#a0 CIAO - Atlas - Russia]{{Liên kết hỏng|date = ngày 20 tháng 1 năm 2021 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>

[[Cách mạng Nga (1917)|Cách mạng Nga]] năm 1917 được khởi phát từ một sự tổng hợp các yếu tố tan rã kinh tế, tình trạng kiệt quệ do chiến tranh, và sự bất bình với hệ thống chính phủ chuyên quyền, và lần đầu tiên một liên minh giữa những người tự do và xã hội chủ nghĩa ôn hoà lên nắm quyền lực, nhưng các chính sách sai lầm của họ đã khiến những người [[Đảng Cộng sản Liên Xô|Cộng sản]] [[Bolshevik]] chiếm quyền lực vào ngày 25 tháng 10 ([[lịch Julius]], tức ngày 7 tháng 11 theo [[lịch Gregory]]). Từ năm 1922 tới năm 1991, lịch sử Nga chủ yếu là [[Lịch sử Liên bang Xô viết|Lịch sử Liên Xô]], một nhà nước hoàn toàn dựa trên ý thức hệ gồm các quốc gia láng giềng của [[Đế quốc Nga]] trước [[Hòa ước Brest-Litovsk]]. Tuy nhiên, việc tiếp cận cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội khác nhau trong từng thời điểm trong lịch sử [[Liên Xô]], từ nền kinh tế pha trộn và xã hội và văn hoá đa dạng hồi thập niên 1920 tới nền kinh tế chỉ huy và trấn áp thời [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] tới "thời kỳ trì trệ" thập niên 1980. Từ những năm đầu tiên, chính phủ Liên Xô đã dựa trên nền tảng độc đảng của những người Cộng sản, như những người Bolshevik tự gọi mình, từ tháng 3 năm 1918.<ref name="Curtis3">[http://countrystudies.us/russia/8.htm Revolutions and Civil War], trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), ''Russia: A Country Study'', Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.</ref> Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980, khi sự yếu kém của các cơ cấu kinh tế và chính trị đã trở nên gay gắt, các lãnh đạo cộng sản đã tiến hành các cải cách lớn, dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết.<ref name="Filzer">Xem Donald A. Filzer, ''Soviet Workers and the Collapse of Perestroika: The Soviet Labour Process and Gorbachev's Reforms, 1985–1991'', Nhà in Đại học Cambridge, 1994. ISBN 0-521-45292-9.</ref>

[[Lịch sử Nga hậu Xô viết|Lịch sử Liên bang Nga]] khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế.<ref>Xem, chẳng hạn, [https://archive.today/20120523224127/www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/ Country Profile for the Russian Federation], của Bộ Ngoại giao Anh. Tra cứu ngày 21-7-2007.</ref> Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí [[siêu cường]] của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền [[Kinh tế kế hoạch|kinh tế kế hoạch tập trung]] và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tố của thị trường [[chủ nghĩa tư bản|tư bản]], với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề. Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.

=== Nước Rus' Kiev ===
{{chính|Rus' Kiev}}
[[Tập tin:Muromian-map.png|nhỏ|trái|Bản đồ gần đúng về các nền văn hóa của Nga phần châu Âu khi người Varangia đến]]
[[Tập tin:Сергей В. Иванов - Военная кампания в России в 16 веке.jpg|nhỏ|trái|300px|Quân lính Nga hành quân trong mùa Đông. Tranh vẽ của [[Sergei Vasilyevich Ivanov]]]]
Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các [[bộ lạc]] khác nhau như [[goth|người Goth]], [[Người Hung|Hun]] và [[người Avar|Avar]] gốc Thổ trong khoảng thời gian từ [[Thế kỷ 3 TCN|thế kỷ III]] tới [[thế kỷ VI]]. Bộ lạc [[người Scythia]] gốc [[Iran]] sinh sống ở các [[đồng cỏ|thảo nguyên]] miền nam, và bộ lạc [[người Khazar|người Ca dắc]] (''Khazar'') gốc Tuốc (''Turk'') đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến [[thế kỷ VIII]]. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người [[Varangia]] thay thế, bộ lạc này đã thiết lập [[thủ đô]] tại thành phố của người Slav [[Veliky Novgorod|Novgorod]] và dần dần hòa trộn với [[người Slav]]. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ VIII trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc [[Các dân tộc Phần Lan-Ugria|Phần Lan-Ugric]], chẳng hạn như [[người Merya]], [[người Muromia|Muromia]] và [[người Meshchera|Meshchera]].

Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với [[Chính Thống giáo Đông phương|Chính thống giáo]] và chuyển thủ đô về [[Kiev]] năm [[1169]]. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "[[Nguyên từ học của Rus và các dẫn xuất|Russ]]" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ [[thế kỷ X]] đến [[thế kỷ XI]] quốc gia [[Rus' Kiev]] (''Киевская Русь'') đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động [[thương mại]] tích cực với cả châu Âu và châu Á.

Trong [[thế kỷ XIII]] khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là [[Kim Trướng hãn quốc|Kim trướng]] của người [[Mông Cổ]] và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các [[công quốc]] Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là [[người Tatar]], họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sáp nhập vào [[Đại công quốc Lietuva]] và [[Ba Lan]]. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kiev đã tách [[người Nga]] ở phía bắc ra khỏi [[người Belarus]] và [[người Ukraina]] ở phía tây.
[[Tập tin:S. V. Ivanov. At the guarding border of the Moscow state. (1907).jpg|nhỏ|phải|240px|Quân tuần tra [[Muscovie]] Nga ở biên giới phía nam]]
Phần phía bắc của Nga cùng với [[Veliky Novgorod|Novgorod]] vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của [[người Mông Cổ]]. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của [[người Đức]] khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.

Giống như khu vực [[Balkan]] và [[Tiểu Á]] sự cai trị kéo dài của những người [[du mục]] đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự [[Chế độ chuyên quyền|chuyên quyền]] kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.

Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là [[Đế quốc Đông La Mã|Đế chế Byzantine]], Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của [[Constantinopolis|Constantinople]] năm [[1453]], Nga là quốc gia [[Chính thống giáo]] duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantine.

=== Đế quốc Nga ===
{{chính|Đế quốc Nga}}
[[Tập tin:Surikov Pokoreniye Sibiri Yermakom.jpg|nhỏ|270x270px|[[Nga chinh phục Siberia|Quân Nga tấn công vùng Siberia]] cuối thế kỷ XVI dưới sự chỉ huy của [[Yermak]]]]
[[Tập tin:Port Arthur MTB attack.jpg|nhỏ|270px|Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga trong [[Hải chiến cảng Lữ Thuận]] 1904]]
Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì [[đại công quốc Moskva]] đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối [[thế kỷ XIV]]. [[Ivan IV của Nga|Ivan Hung đế]], vị vua đầu tiên xưng tước vị [[Sa hoàng]], đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và tiến quân tới những vùng đất rộng lớn ở [[Siberia]] mà lịch sử gọi là [[Nga chinh phục Siberia]] (1580–1778). [[Đế quốc Nga|Đế chế Nga]] ra đời.

Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới [[nhà Romanov|triều đại Romanov]] kế tiếp, bắt đầu với [[Mikhail I của Nga|Sa hoàng Mikhail Romanov]] năm [[1613]]. [[Pyotr I của Nga|Pyotr Đại đế]], Sa hoàng từ [[1689]] tới [[1725]], đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Những cải cách của Pyotr cùng với chiến thắng của Nga đánh bại [[Thụy Điển]] trong [[Đại chiến Bắc Âu]] chống quân [[Thụy Điển]] đã đưa Nga vươn lên thành một trong những cường quốc châu Âu khi đó. Các nữ hoàng [[Elizaveta của Nga|Elizaveta]] (Елизаве́та; cai trị [[1740]]-[[1762]]), [[Ekaterina II của Nga|Ekaterina Đại đế]] (Екатерина II Алексеевна; [[1762]]-[[1796]]) đã tiếp bước gầy dựng Đế quốc Nga, bảo trợ khoa học, nghệ thuật, chinh phục nhiều vùng đất lớn của Thụy Điển, [[Đế quốc Ottoman|Thổ Nhĩ Kỳ]] và đánh bại [[Vương quốc Phổ|Phổ]] trong [[chiến tranh Bảy năm]].

Tuy nhiên, sự nổi loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp [[trí thức]] đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận [[Hải chiến Tsushima|Hải chiến Đối Mã]]) trước người Nhật trong [[chiến tranh Nga-Nhật]] năm 1905 đã dẫn đến cuộc [[Cách mạng Nga (1905)|Cách mạng 1905]]. Trước [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]], vai trò của Sa hoàng [[Nikolai II của Nga|Nikolai II]] (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của [[Đế quốc Nga|Đế chế Nga]] và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm [[1917]], đó là [[Cách mạng Tháng Hai|Cách mạng tháng Hai]].

Vào giai đoạn cuối của [[Cách mạng Tháng Mười|Cách mạng tháng Mười]] (1917), những người theo đường lối [[Bolshevik]] của [[Đảng cộng sản|Đảng Cộng sản]] dưới sự lãnh đạo của [[Vladimir Ilyich Lenin]] đã giành được chính quyền thành lập [[Liên Xô]]. Sự lãnh đạo của [[Iosif Vissarionovich Stalin]] đã thúc đẩy nhanh quá trình [[công nghiệp hóa]] một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và [[tập thể hóa]] nền nông nghiệp đưa đất nước phát triển vượt bậc. Điều này cũng làm tăng cường vị thế của [[Liên Xô]].

=== Nga Xô viết ===
{{chính|Các nước Cộng hoà thuộc Liên xô|Lịch sử Liên bang Xô viết|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga}}
[[Tập tin:Lenin 1920.jpg|nhỏ|trái|200px|đứng|[[Vladimir Lenin]], lãnh đạo những người [[Bolshevik]] và là người sáng lập Liên xô.]]

Sau [[Cách mạng Tháng Mười|Cách mạng tháng 10]], một cuộc [[Nội chiến Nga|nội chiến]] bùng phát giữa phong trào Cách mạng Bolsheviks và quân [[Bạch vệ]] phản cách mạng, tuy [[Hòa ước Brest-Litovsk]] đã chấm dứt những thù địch với [[Liên minh Trung tâm]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến I]]. Nga đã mất các lãnh thổ tại [[Ukraina]], [[Ba Lan]], [[Baltic]], [[Phần Lan]] khi ký kết hiệp ước. [[Entente|Các cường quốc Đồng Minh]] [[Đồng Minh can thiệp vào Nội chiến Nga|can thiệp quân sự]] hỗ trợ cho các lực lượng chống đảng Bolshevik. Tới cuối cuộc [[Nội chiến Nga]], nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của Nga đã bị phá huỷ nghiêm trọng, gây ra [[Nạn đói Nga năm 1921|nạn đói năm 1921]] đã làm thiệt mạng từ 1 tới 5 triệu người.<ref>[http://www.icrc.org/eng/resources/documents/misc/5rfhjy.htm]{{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20121219101057/http://www.icrc.org/eng/resources/documents/misc/5rfhjy.htm|date=ngày 19 tháng 12 năm 2012}}<span> Famine in Russia: the hidden horrors of 1921</span>, International Committee of the Red Cross</ref> Nhờ sự ủng hộ của người dân và lý tưởng chiến đấu cao, lực lượng Xô viết cuối cùng đã đánh bại Bạch Vệ, đánh đuổi được quân của các ngoại quốc can thiệp và thống nhất đất nước.

[[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]] cùng với các nước cộng hoà thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã [[Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô|thành lập]] [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]] ngày 30 tháng 12 năm 1922. Trong số [[các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết|15 nước cộng hoà]] thành lập Liên Xô, [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], nước cộng hoà lớn nhất về diện tích và chiếm tới hơn một nửa dân số Nga, chiếm đa số dân cư tại Liên bang Xô viết trong toàn bộ lịch sử 89 năm của nó. Vì thế, Liên bang Xô viết thường được gọi, dù một cách không chính thức, là ''"Nga"'' và người dân của nó là ''"người Nga"''.

Sau khi [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] qua đời năm 1924, một lãnh đạo Bolshevik khác là [[Iosif Vissarionovich Stalin|Joseph Stalin]] lên củng cố quyền lực. Ông bãi bỏ các chính sách [[kinh tế thị trường]] của Lenin và đưa ra một nền [[Kinh tế kế hoạch|kinh tế chỉ huy]], nhanh chóng [[công nghiệp hóa|công nghiệp hoá]] đất nước vẫn còn hầu hết là nông nghiệp, [[Tập thể hoá tại Liên xô|tập thể hoá]] nền nông nghiệp. Những động thái này đã biến Liên Xô từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở thành một [[cường quốc]] công nghiệp thứ 2 thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn, chưa đầy 20 năm. Tuy nhiên, sự chuyển tiếp này cũng đi kèm với hậu quả, hàng triệu người đã phải di cư tới những vùng xa xôi (xem [[Phi kulak hoá]], [[Di chuyển dân cư tại Liên xô]]).

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, [[Chiến dịch Barbarossa|Phát xít Đức xâm lược Liên Xô]] với lực lượng lớn và mạnh nhất trong lịch sử nhân loại,<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=World War II|nhà xuất bản=Encyclopædia Britannica|ngày truy cập=ngày 9 tháng 3 năm 2008|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813/World-War-II}}</ref> mở ra [[chiến tranh Xô-Đức|mặt trận đẫm máu của Thế chiến II]]. Dù [[Wehrmacht|quân đội Đức]] có những thắng lợi lớn ở thời điểm ban đầu, cuộc tấn công của họ đã bị chặn lại trong [[Trận Moskva (1941)|Trận Moskva]]; sau đó người Đức đã phải chịu nhiều thất bại quan trọng khác, đầu tiên tại [[Trận Stalingrad]] mùa đông năm 1942–1943,<ref>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813/World-War-II|nhà xuất bản=Encyclopedia Britannica|ngày truy cập=ngày 12 tháng 3 năm 2008|tiêu đề=The Allies' first decisive successes > Stalingrad and the German retreat, summer 1942–February 1943}}</ref> sau đó tại [[Trận Vòng cung Kursk|Trận chiến Vòng cung Kursk]] vào mùa hè năm [[1943]]. Một nơi khác đánh dấu thất bại của Phát xít Đức trước chủ nghĩa anh hùng Liên Xô là thành phố [[Sankt-Peterburg|Leningrad]], nơi bị các lực lượng Đức [[trận Leningrad|phong tỏa hoàn toàn trên đất liền]] giai đoạn 1941–44 và phải chịu nạn đói với hàng triệu người chết, nhưng thành phố đã không chịu đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của các vị tướng xuất chúng như [[Georgi Konstantinovich Zhukov|Georgy Zhukov]] và [[Konstantin Konstantinovich Rokossovsky|Konstantin Rokossovsky]], các lực lượng Liên Xô đã chuyển sang giai đoạn phản công, tiến qua [[Đông Âu]] năm 1944–45 và [[chiến dịch Berlin (1945)|chiếm Berlin]] tháng 5 năm 1945. Sau đó, quân đội Liên xô [[Chiến dịch Mãn Châu (1945)|đẩy lùi Nhật Bản]] khỏi vùng [[Mãn Châu]] của [[Trung Quốc]] và [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]], một đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Đồng Minh trước Nhật Bản.

[[Tập tin:Reichstag flag original.jpg|nhỏ|đứng|250px|phải|[[Lá cờ chiến thắng]] trên nóc [[Tòa nhà Reichstag|tòa nhà Reichstag (Quốc hội Đức)]] sau [[Chiến dịch Berlin (1945)|Trận Berlin]] tháng 5 năm 1945.]]
Giai đoạn 1941–1945 của [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]] được gọi là ''[[Cuộc chiến tranh chưa được biết đến|Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại]]'' tại Nga. Trong cuộc xung đột này, vốn gồm nhiều [[Danh sách các trận đánh theo con số thương vong|chiến dịch quân sự có thiệt hại nhân mạng lớn nhất]] trong [[Lịch sử thế giới|lịch sử loài người]], con số thiệt mạng của Liên Xô là 8,7 triệu binh sĩ và 15,9 triệu thường dân<ref name=vadim>{{Chú thích sách|author=Erlikman, V.|title=Poteri narodonaseleniia v XX veke: spravochnik|year=2004|id=Note: Estimates for Soviet World War II casualties vary between sources|isbn=5931651071|publisher=Russkai︠a︡ panorama|location=Moskva}}</ref> chiếm khoảng một phần ba tổng số [[thương vong trong Thế chiến II]]. Kinh tế và hạ tầng Liên Xô bị phá hủy nặng nề<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Reconstruction and Cold War|nhà xuất bản=Library of Congress|url=http://countrystudies.us/russia/12.htm|ngày truy cập =ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> nhưng Liên bang Xô viết đã nổi lên trở thành một [[siêu cường]] được công nhận. [[Hồng Quân|Hồng quân]] chiếm [[Đông Âu]] sau cuộc chiến, gồm cả [[cộng hòa Dân chủ Đức|nửa phía đông]] của nước Đức; Stalin đã thiết lập các chính phủ xã hội chủ nghĩa tại [[đông Âu|các quốc gia vệ tinh]] này. Trở thành [[Nga và vũ khí huỷ diệt hàng loạt|cường quốc hạt nhân]] số hai thế giới, Liên Xô đã thành lập [[Khối Warszawa|Khối hiệp ước Warszawa]] đồng minh và bước vào một cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với [[Hoa Kỳ]], được gọi là cuộc [[Chiến tranh Lạnh]]. [[Liên Xô]] đã đưa [[Chủ nghĩa Cộng sản]] của mình tới những đồng minh mới giành được độc lập, [[Trung Quốc]] cùng với [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]], trong khi cũng giúp các nước này thực hiện [[công nghiệp hóa|công nghiệp hoá]] và [[phát triển]]. Sau đó các ý tưởng của [[Chủ nghĩa cộng sản|Chủ nghĩa Cộng sản]] cũng đã giành được chỗ đứng tại [[Cuba]] và nhiều quốc gia khác.

Sau khi [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]] qua đời, một lãnh đạo mới [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov|Nikita Khrushchev]] lên án sự [[sùng bái cá nhân|sùng bái cá nhân với Stalin]] và khởi động quá trình [[phi Stalin hoá]]. Các [[trại cải tạo lao động của Liên Xô|Gulag]] bị bãi bỏ và đại đa số tù nhân được thả ra;<ref>{{Chú thích web|url=http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,916205-2,00.html|nhà xuất bản=[[Time (tạp chí)|TIME]]|ngày truy cập=ngày 1 tháng 8 năm 2008|tiêu đề=Great Escapes from the Gulag|archive-date = ngày 26 tháng 6 năm 2009 |archive-url=https://web.archive.org/web/20090626002132/http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,916205-2,00.html|url-status=dead}}</ref> việc loại bỏ các chính sách của Stalin sau này được gọi là thời kỳ tan băng Khruschev. Liên bang Xô viết phóng [[vệ tinh|vệ tinh nhân tạo]] đầu tiên của thế giới, ''[[Sputnik 1]]'', và [[nhà du hành vũ trụ]] Nga [[Yuri Alekseievich Gagarin|Yuri Gagarin]] trở thành người đầu tiên bay quanh [[Trái Đất]] trên tàu vũ trụ có người điều khiển đầu tiên, ''[[Vostok 1]]''. Những căng thẳng với [[Quan hệ Hoa Kỳ – Liên Xô|Hoa Kỳ]] lên cao khi hai đối thủ xung đột về việc Mỹ triển khai [[PGM-19 Jupiter|các tên lửa Jupiter]] tại [[Thổ Nhĩ Kỳ]] và Liên xô triển khai [[Khủng hoảng tên lửa Cuba|tên lửa tại Cuba]].

Sau khi Khrushchev bị buộc phải từ chức, một giai đoạn cầm quyền tập thể ngắn khác kế tiếp, cho tới khi [[Leonid Ilyich Brezhnev|Leonid Brezhnev]] lên nắm quyền lãnh đạo chính trị Liên Xô vào đầu thập niên 1970. Cuối thời Brezhnev chứng kiến giai đoạn [[Trì trệ Brezhnev|trì trệ kinh tế]], bởi những nỗ lực cải cách của [[Thủ tướng Liên Xô|Thủ tướng]] [[Alexey Kosygin]], đã bị dừng lại. Những cuộc cải cách này có mục tiêu chuyển trọng tâm của nền [[kinh tế Liên xô|kinh tế Liên Xô]] từ [[công nghiệp nặng]] và [[Công nghiệp vũ khí|sản xuất quân sự]] sang [[công nghiệp nhẹ]] và sản xuất [[hàng dân dụng|hàng tiêu dùng]], tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là việc [[phi tập trung hoá]] nền kinh tế và áp dụng các yếu tố kiểu [[tư bản]], và giới lãnh đạo trung thành với [[Chủ nghĩa cộng sản]] sẽ không chấp nhận. Từ năm 1979 cuộc [[chiến tranh Afghanistan (1978–1992)|chiến tranh Xô viết tại Afghanistan]] đã làm hao mòn các nguồn tài nguyên kinh tế mà không mang lại một kết quả có ý nghĩa chính trị nào. Cuối cùng [[hồng Quân|các lực lượng Liên Xô]] đã rút khỏi Afghanistan năm 1989 vì sự phản đối quốc tế và thiếu sự ủng hộ từ trong nước. Căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ lại gia tăng vào đầu thập niên 1980, được tăng cường bởi tình cảm chống Liên Xô tại Mỹ, [[Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược|đề xuất SDI]], và vụ bắn hạ [[chuyến bay 007 của Korean Air Lines]] năm 1983 của Liên Xô.

Trước năm 1991, [[kinh tế Liên Xô]] luôn là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,<ref name=cia1990>{{Chú thích web|url=http://www.umsl.edu/services/govdocs/wofact90/world12.txt|nhà xuất bản=[[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|Central Intelligence Agency]]|ngày truy cập=ngày 9 tháng 3 năm 2008|tiêu đề=1990 CIA World Factbook|archive-date = ngày 27 tháng 4 năm 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110427053700/http://www.umsl.edu/services/govdocs/wofact90/world12.txt|url-status=dead}}</ref> nhưng trong những năm cuối cùng nó đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt hàng hoá, những khoản thâm hụt tài chính và việc tăng nguồn cung tiền đã dẫn tới lạm phát.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.photius.com/countries/russia/economy/russia_economy_unforeseen_results_o~1315.html|tiêu đề=Russia Unforeseen Results of Reform|nhà xuất bản=The Library of Congress Country Studies; CIA World Factbook|ngày truy cập=ngày 10 tháng 3 năm 2008}}</ref> Từ năm 1985 trở về sau, lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô [[Mikhail Sergeyevich Gorbachyov|Mikhail Gorbachev]] đã đưa ra các chính sách ''[[glasnost]]'' (mở cửa) và ''[[perestroika]]'' (tái cơ cấu) trong một nỗ lực nhằm hiện đại hoá đất nước và biến nó thành [[dân chủ]] hơn. Tuy nhiên, việc này đã dẫn tới sự trỗi dậy của các [[phong trào ly khai]] và [[Lịch sử Liên bang Xô viết (1985-1991)|sự giải tán Liên Xô]]. Tháng 8 năm 1991, một [[Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991|cuộc đảo chính quân sự]] bất thành, chống lại Gorbachev nhằm mục tiêu duy trì Liên Xô, nhưng cuộc đảo chính thất bại và đã dẫn tới sự tan rã của Liên Xô. Tại [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]], [[Boris Nikolayevich Yeltsin|Boris Yeltsin]] lên nắm quyền lực và tuyên bố chấm dứt chế độ [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]]. Liên Xô tan rã thành [[Các quốc gia hậu Xô viết|15 nước cộng hoà độc lập]] và [[Liên Xô tan rã|chính thức giải tán]] tháng 12 năm 1991. Boris Yeltsin được bầu làm [[Tổng thống Nga]] tháng 6 năm 1991, cuộc [[Bầu cử tổng thống Nga năm 1991|bầu cử tổng thống trực tiếp]] đầu tiên trong lịch sử Nga.

=== Liên bang Nga (1991 tới nay) ===
{{chính|Lịch sử Nga hậu Xô viết}}
[[Tập tin:Russian Army Bosnia.jpg|nhỏ|phải|300px|Thiết giáp [[BTR-80]] của Quân đội Nga năm 1996]]
Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, [[:Thể loại:Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô|tổng bí thư]] [[Mikhail Sergeyevich Gorbachyov|Mikhail Sergeyevich Gorbachov]] đề ra ''[[glasnost]]'' (''гласность'' tức "công khai hóa, mở cửa") và ''[[perestroika]]'' (''Перестройка'' tức "cải tổ") trong cố gắng để hiện đại hóa [[chủ nghĩa cộng sản]]. Những sáng kiến của ông [[Lịch sử Liên Xô (1985–1991)|đã vô tình giải phóng các lực lượng]] mà vào [[Tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1991]] đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị [[Hệ thống đa đảng|đa đảng]] và [[kinh tế thị trường]] theo mô hình [[Chủ nghĩa tư bản|tư bản chủ nghĩa]] nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ Liên Xô. Tuy nhiên, quá trình này không diễn ra êm ả. Kinh tế Nga suy sụp đáng kể trong 10 năm cầm quyền của Tổng thống [[Boris Nikolayevich Yeltsin|Boris Yeltsin]]. Kể từ khi [[Chechnya]] tuyên bố độc lập vào đầu những năm [[thập niên 1990]], những cuộc [[chiến tranh du kích]] ([[Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất|Chiến tranh Chechnya lần 1]], [[Chiến tranh Chechnya lần thứ hai|Chiến tranh Chechnya lần 2]]) đã diễn ra giữa các nhóm [[người Chechen]] khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ [[Hồi giáo]] cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở [[Bắc Ossetia-Alania|Bắc Ossetia]] và [[Ingushetiya|Ingushetia]].

Sau thời gian làm tổng thống của [[Boris Nikolayevich Yeltsin|Boris Yeltsin]] trong những năm thập niên 1990, [[Vladimir Vladimirovich Putin]] đã được bầu làm tổng thống năm [[1999]]. Dưới thời kỳ Putin, một số giá trị và chính sách của Liên Xô được tái áp dụng, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các [[Truyền thông đại chúng|phương tiện thông tin đại chúng]] ở Nga tăng lên. Phương Tây luôn chỉ trích về [[nhân quyền]] ở Nga trong thời kỳ Vladimir Putin lãnh đạo, nhưng thời kỳ này đã chứng kiến việc Nga thoát ra khỏi [[khủng hoảng kinh tế]] và chính trị, và uy tín của Putin với người dân Nga tăng lên rất cao.

Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại [[Gruzia]] ([[Cách mạng hồng]]), [[Ukraina]] ([[Cách mạng da cam]]), [[Kyrgyzstan]] ([[Cách mạng Tulip]]) và một số quốc gia cựu thành viên Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở [[Chechnya]]), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ an ninh đối với nước Nga vẫn là rất cao.

Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội [[Gruzia]] tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở [[Nam Ossetia]], Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị [[Abkhazia]] và [[Nam Ossetia]] (26/08/2008). Năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo [[Crimea]] sau cuộc trưng cầu dân ý của người địa phương. Cuối năm 2015, Nga đem quân hỗ trợ chính phủ [[Syria]] trong cuộc chiến chống lại các nhóm nổi dậy và [[Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant|nhà nước Hồi giáo IS]]. Các động thái này cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực [[Cộng đồng các Quốc gia Độc lập|SNG]] và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế [[siêu cường]] của Liên bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.

== Chính phủ và chính trị ==
{{Chính trị Nga}}
{{chính|Chính phủ Nga}}
{{multiple image
| align = left
| image1 = Vladimir Putin (2018-03-01) 03 (cropped).jpg
| width1 = 119
| alt1 = Vladimir Vladimirovich Putin
| caption1 = <center>{{flagicon image|Standard of the President of the Russian Federation.svg}} [[Tổng thống Nga|Tổng thống]]<br /><small>[[Vladimir Putin]]</small></center>
| image2 = Mikhail Mishustin (2020-07-09).jpg
| width2 = 138
| alt2 = Mikhail Vladimirovich Mishustin
| caption2 = <center>[[Tập tin:Coat of Arms of the Russian Federation 2.svg|15x15px]] [[Thủ tướng Nga|Thủ tướng]]<br /><small>[[Mikhail Mishustin]]</small></center>
}}

[[Tập tin:Kremlin Senate in the Moscow Kremlin.jpg|nhỏ|trái|Lối vào [[Thượng viện Kremlin|Thượng viện Kremli]], một phần của [[Điện Kremli]] và là nơi làm việc của [[Tổng thống Nga]].]]

Theo [[hiến pháp Nga]] sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc [[khủng hoảng Hiến pháp Nga 1993|khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993]], Nga là một [[liên bang]] và theo chính thức là một nền [[cộng hòa|cộng hoà]] [[Bán tổng thống chế|bán tổng thống]], theo đó Tổng thống là [[nguyên thủ quốc gia]]<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 80, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-05.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> và [[Thủ tướng Nga|Thủ tướng]] là [[lãnh đạo chính phủ]]. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ [[dân chủ đại nghị|dân chủ đại diện]]. [[Hành pháp|Quyền hành pháp]] thuộc chính phủ.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 110, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-07.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> [[Cơ quan lập pháp|Quyền lập pháp]] thuộc hai viện của [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]].<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 94)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-06.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Chính phủ được điều chỉnh bằng một hệ thống [[chia tách quyền lực|kiểm tra và cân bằng]] được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và [[khế ước xã hội]] cho người dân Liên bang Nga. Chính phủ Liên bang gồm ba nhánh:

* [[Cơ quan lập pháp|Lập pháp]]: [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]] [[lưỡng viện]], gồm [[Đuma Quốc gia|Duma Quốc gia]] và [[Hội đồng Liên bang Nga|Hội đồng Liên bang]] thông qua [[luật liên bang]], [[tuyên bố chiến tranh|tuyên chiến]], thông qua các hiệp ước, có [[quyền phê duyệt ngân sách]], và có quyền [[luận tội]], theo đó có thể phế truất Tổng thống.
* [[Hành pháp (chính phủ)|Hành pháp]]: Tổng thống là [[tổng tư lệnh]] quân đội, có thể phủ quyết [[Dự luật (luật được đệ trình)|dự luật]] trước khi nó có hiệu lực, và chỉ định Nội các và các quan chức khác, những người giám sát và thực hiện các điều luật và chính sách liên bang.
* [[Tư pháp]]: [[Tòa án Hiến pháp Nga|Toà án Hiến pháp]], [[Tòa án Tối cao Nga|Toà án Tối cao]], [[Toà án Trọng tài Tối cao Nga|Toà án Trọng tài]] và [[các toà án liên bang]] cấp thấp hơn, với các thẩm phán do Hội đồng Liên bang chỉ định theo sự giới thiệu của tổng thống, giải thích pháp luật và có thể bác bỏ các điều luật mà họ cho là [[Hợp hiến|vi hiến]].

[[Tập tin:Peter the Great statue in Saint Petersburg.jpg|nhỏ|150px|Đài kỷ niệm ''[[Người cưỡi ngựa đồng]]'' phía trước [[Toà án Hiến pháp Nga]] tại [[Sankt-Peterburg|Sankt Peterburg]].]]
Theo hiến pháp, phán quyết tại toà dựa trên tính bình đẳng của mọi công dân,<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 19, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> các thẩm phán là độc lập và chỉ làm theo pháp luật,<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 120, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-08.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> các phiên toà được mở và người bên bị được quyền có luật sư bào chữa.<ref>{{cite web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 123, §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-08.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Từ năm 1996, Nga đã quy định đình hoãn thi hành hình phạt [[Tử hình tại nga|tử hình]], dù hình phạt tử hình về mặt danh nghĩa chưa bị pháp luật bãi bỏ.

Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp);<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 81, §3)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-05.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2024. Các lãnh đạo của chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thông qua).

Nhánh lập pháp quốc gia là [[Quốc hội Liên bang Nga|Quốc hội Liên bang]], gồm hai viện; [[Đuma Quốc gia|Duma Quốc gia]] với 450 thành viên<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 95, §3)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-06.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> và [[Hội đồng Liên bang Nga|Hội đồng Liên bang]] 176 thành viên. Các đảng chính trị lớn của Nga gồm [[Nước Nga thống nhất|Nước Nga Thống nhất]], [[Đảng Cộng sản Liên bang Nga|Đảng Cộng sản]], [[Đảng Dân chủ Tự do Nga]], và [[Nước Nga Công bằng]].

=== Quan hệ ngoại giao ===
{{chính|Quan hệ ngoại giao của Nga}}
[[Tập tin:BRIC leaders in 2008.jpg|nhỏ|trái|Lãnh đạo các quốc gia [[BRIC]] năm 2008: (trái sang phải) [[Manmohan Singh]] của Ấn Độ, Dmitry Medvedev của Nga, [[Hồ Cẩm Đào]] của Trung Quốc và [[Luiz Inácio Lula da Silva]] của Brasil.]]
Liên bang Nga được luật pháp quốc tế công nhận là [[nhà nước kế tục]] của [[Liên Xô]] cũ.<ref name=uk>{{Chú thích web|tiêu đề=Country Profile: Russia|nhà xuất bản=Foreign & Commonwealth Office of the United Kingdom|url=<!--http://www.fco.gov.uk/en/about-the-fco/country-profiles/europe/russia/-->http://www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20091016040108/http://www.fco.gov.uk/en/travel-and-living-abroad/travel-advice-by-country/country-profile/europe/russia/|ngày lưu trữ=2009-10-16|url hỏng=yes}}</ref> Nga tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế của Liên Xô, và đã nhận chiếc ghế thường trực của Liên Xô tại [[Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc|Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc]], tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế khác, các quyền và nghị vụ theo các hiệp ước quốc tế, tài sản và các khoản nợ. Nga có chính sách đối ngoại đa dạng. Ở thời điểm năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.<ref>
Based on actual count of countries listed
{{Chú thích web
|url=http://www.mid.ru/zu_r.nsf/strawebeng
|tiêu đề=Diplomatic and consular missions of Russia
|ngày truy cập=ngày 12 tháng 7 năm 2009
|nhà xuất bản=Ministry of Foreign Affairs of Russia
}}. Only those listed explicitly as "Embassy of Russia" are included in the embassy count.</ref>
Chính sách đối ngoại được [[Tổng thống Nga]] vạch ra và được [[Bộ Ngoại giao Nga|Bộ ngoại giao]] thực hiện.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Kosachev. K|tiêu đề=Russian Foreign Policy Vertical|nhà xuất bản=Russia In Global Affairs|url=http://eng.globalaffairs.ru/number/n_3372|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date=2016-04-17|archive-url=https://web.archive.org/web/20160417042520/http://eng.globalaffairs.ru/number/n_3372|url-status=dead}}</ref>

Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nước này tham gia vào [[Nhóm bộ tứ cho Trung Đông]] và [[Đàm phán sáu bên]] về vấn đề hạt nhân trên [[bán đảo Triều Tiên]]. Nga là một thành viên của [[G8]], [[Hội đồng châu Âu]], [[Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu|OSCE]] và [[Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương|APEC]]. Nga thường có vai trò lãnh đạo trong các tổ chức cấp vùng như [[Cộng đồng các Quốc gia Độc lập|CSI]], [[Cộng đồng Kinh tế Âu Á|EurAsEC]], [[Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể|CSTO]], và [[Tổ chức Hợp tác Thượng Hải|SCO]]. Cựu tổng thống Vladimir Putin đã ủng hộ một đối tác chiến lược với sự hội nhập ở nhiều cấp độ gồm cả việc thành lập [[Các không gian chung Liên minh châu Âu-Nga|bốn không gian chung giữa Nga và EU]].<ref>{{ru_icon}} {{Chú thích web|url=http://rian.ru/politics/20041125/743119.html|tiêu đề=Interview of official Ambassador of Russian Foreign Ministry on relations with the EU|nhà xuất bản=RIA Novosti|ngày truy cập=ngày 30 tháng 6 năm 2008}}</ref> Từ khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã phát triển một [[Quan hệ NATO-Nga|mối quan hệ]] thân cận hơn dù không ổn định với [[NATO]]. [[Hội đồng NATO-Nga]] được thành lập năm 2002 để cho phép 26 nước Đồng minh và Nga cùng làm việc như những đối tác bình đẳng để theo đuổi sự hợp tác chung.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=NATO-Russia relations|nhà xuất bản=NATO|url=http://www.nato.int/issues/nato-russia/topic.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070411124719/http://www.nato.int/issues/nato-russia/topic.html|ngày lưu trữ=2007-04-11|url-status=live}}</ref>

Mối quan hệ giữa Nga và [[Hoa Kỳ]] trở nên ngày càng căng thẳng trong những năm gần đây sau những sự kiện như cuộc khủng hoảng ở [[Ukraine|Ukraina]] năm 2014 dẫn tới việc Nga sáp nhập [[Crimea]], sự can thiệp quân sự của Nga trong cuộc [[Nội chiến Syria]] vào năm 2015, và từ cuối năm 2016 với những nghi ngờ về một sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ.

Quan hệ giữa Nga và [[Trung Quốc]] đã đạt được nhiều thành tựu trong các vấn đề song phương và đa phương thời gian qua. Liên minh Nga – Trung Quốc hoạt động dựa trên nguyên tắc về lợi ích chung nhưng quan hệ chiến lược với Trung Quốc sẽ thực sự là một áp lực trong thập kỷ tiếp theo. Vấn đề trở ngại lớn nhất là sự nới rộng khoảng cách giữa Trung Quốc là nền [[kinh tế]] bùng nổ và một nước Nga kém [[hiện đại]] hóa đang già cỗi về [[chính trị]]. Nga là nạn nhân của sự chuyển hướng toàn cầu sang phương Đông bởi vì nước Nga không thể thích nghi với những đòi hỏi của [[kỷ nguyên]] [[hậu công nghiệp]] và quan hệ đối tác cân bằng với Trung Quốc trở nên thiếu bền vững và nỗi lo ngại cũ về "mối đe dọa Trung Quốc" sẽ tái hiện.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.petrotimes.vn/the-gioi-phang/ho-so-su-kien/2012/06/nga-%E2%80%93-trung-quoc-doi-tac-thieu-ben-vung |ngày truy cập=2012-06-15 |tựa đề=Nga – Trung Quốc: Đối tác thiếu bền vững<!-- Bot generated title --> |archive-date = ngày 15 tháng 6 năm 2012 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120615192003/http://www.petrotimes.vn/the-gioi-phang/ho-so-su-kien/2012/06/nga-%E2%80%93-trung-quoc-doi-tac-thieu-ben-vung |url-status=live }}</ref> Đối với Trung Quốc, Nga vẫn là một nguồn cung cấp [[dầu mỏ|dầu khí]] hữu ích, tuy kém quan trọng hơn nhiều so với [[vùng Vịnh]] và [[châu Phi]].

Theo [[Ngoại trưởng]] [[Sergei Lavrov]], Nga cần phải xây dựng "liên minh [[hiện đại hoá]]" với các nước [[châu Âu]] để tiếp thu những công nghệ cần thiết và "cần tìm cơ hội khai thác tiềm năng [[công nghệ]] của [[Hoa Kỳ|Mỹ]]" khiến cho Mỹ hết sức cảnh giác. Nga coi [[Đức]], [[Pháp]], [[Ý]] và [[Tây Ban Nha]] là những đối tác gần gũi nhất của Nga ở châu Âu.<ref>[https://archive.today/20120715094507/vov.vn/Home/Nga-dieu-chinh-chien-luoc-doi-ngoai-theo-huong-nao/20106/147360.vov Nga điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng nào? - Nga dieu chinh chien luoc doi ngoai theo huong nao? - VOV.VN<!-- Bot generated title -->]</ref>

Trong khi Nga thường được công nhận rộng rãi là một cường quốc, trong những năm gần đây một số nhà lãnh đạo thế giới, học giả, các nhà bình luận và chính trị gia đã nhìn nhận về Nga như một siêu cường đang phục hồi hoặc một [[siêu cường tiềm năng]] dù họ đang bị tụt lùi hơn so với phía Trung Quốc.<ref>{{chú thích sách|last=Rosefielde|first=Steven|date=2005|title=Russia in the 21st Century The Prodigal Superpower|url=https://books.google.com/books?id=eC6HdSYZhRgC|publisher=Cambridge University Press|page= |isbn=978-0-521-83678-4}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://atlanticreview.org/archives/1160-Is-Russia-a-Superpower-Cold-War-II.html|title=Is Russia a Superpower? Cold War&nbsp;II?|first=Kyle|last=Atwell|date=ngày 25 tháng 8 năm 2008|publisher=Atlantic Review|access-date =ngày 20 tháng 10 năm 2016|archive-date = ngày 30 tháng 7 năm 2017 |archive-url=https://web.archive.org/web/20170730094430/http://atlanticreview.org/archives/1160-Is-Russia-a-Superpower-Cold-War-II.html|url-status=dead}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.spiegel.de/international/world/russia-s-strategy-what-s-looming-in-ukraine-is-more-threatening-than-georgia-a-584631.html|title=What's Looming in Ukraine Is more Threatening than Georgia|author=<!--Staff writer(s); no by-line.-->|date=ngày 16 tháng 10 năm 2008|publisher=[[Der Spiegel]]|access-date =ngày 20 tháng 10 năm 2016|quote=Nikonov: Russia is not a superpower and won't be one for the foreseeable future. But Russia is a great power. It was one, it is one and it will continue to be one.}}</ref>

===Nhân quyền===
{{chính|Nhân quyền tại Nga}}
Nga và Phương Tây thường xuyên có những bất đồng xung quanh vấn đề [[nhân quyền]] tại Nga. Các nước Phương Tây cáo buộc chính phủ Nga đã nhiều lần có những hành động vi phạm nhân quyền (bao gồm cấm truyền bá về cộng đồng [[LGBT]], hạn chế [[tự do ngôn luận]] và ám sát nhà báo có tư tưởng đối lập). Đặc biệt, các tổ chức như [[Tổ chức Ân xá Quốc tế]] (Hoa Kỳ) coi Nga là không có đủ các điều kiện của một nhà nước [[dân chủ]] và chỉ trích chính phủ Nga về việc hạn chế các quyền chính trị và tự do dân sự đối với công dân của mình <ref>{{Chú thích web|url=https://www.amnesty.org/en/region/russia/report-2009|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20100713010532/http://www.amnesty.org/en/region/russia/report-2009|ngày lưu trữ=ngày 13 tháng 7 năm 2010|tiêu đề=Amnesty International report on Russia|nhà xuất bản=Amnesty International|ngày truy cập=ngày 11 tháng 7 năm 2010}}</ref>. [[Freedom House]], một tổ chức quốc tế được tài trợ bởi Hoa Kỳ, xếp Nga vào nhóm các nước "không tự do", đồng thời cáo buộc rằng các cuộc bầu cử ở Nga đã được dàn xếp một cách tinh vi <ref>{{Chú thích web|url=https://freedomhouse.org/report/freedom-world/2009/russia?page=22&year=2009&country=7689#.VT7KCuH9ycw|tiêu đề=Annual report Russia|nhà xuất bản=Freedom House|ngày=ngày 10 tháng 5 năm 2004|ngày truy cập=ngày 27 tháng 4 năm 2010|archive-date = ngày 13 tháng 12 năm 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131213022340/http://www.freedomhouse.org/report/freedom-world/2009/russia?page=22&year=2009&country=7689#.VT7KCuH9ycw|url-status=dead}}</ref> Tại [http://georgewbush-whitehouse.archives.gov/news/releases/2005/02/20050224-9.html cuộc họp báo chung với Tổng thống George Bush năm 2005 ở Slovakia], Tổng thống Nga Putin đã trả lời về các cáo buộc của phương Tây về vấn đề nhân quyền tại Nga. Ông cho rằng các quyền con người phải được áp dụng phù hợp với truyền thống văn hóa và quyền lợi quốc gia của Nga chứ không phải sự áp đặt từ phương Tây:

:''"Nước Nga đã đưa ra lựa chọn của mình theo hướng dân chủ. 14 năm trước, một cách độc lập, không bị bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài, nó đã đưa ra quyết định đó trên cơ sở lợi ích của chính mình và lợi ích của người dân - những công dân của nó. Đó chính là lựa chọn cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi không có con đường quay trở lại.''
:''Đầu tiên, chúng tôi không chuẩn bị tạo nên - sáng tạo bất kỳ một kiểu dân chủ đặc biệt nào của Nga; chúng tôi đang chuẩn bị đưa ra các nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ từng được thành lập trên thế giới. Nhưng tất nhiên, tất cả các định chế dân chủ hiện đại - các nguyên tắc dân chủ phải tương xứng với tình trạng phát triển hiện tại của nước Nga, với lịch sử và truyền thống của chúng tôi.''
:''Không hề có điều gì bất bình thường ở đây. Về hoạt động của các thể chế dân chủ chính, có thể có một số sự khác biệt, nhưng các nguyên tắc căn bản và nền tảng đang được áp dụng theo cách thức để chúng sẽ được phát triển bởi một xã hội hiện đại và văn minh...''
:''Tôi tin rằng rất nhiều người sẽ đồng ý với tôi, việc áp dụng những nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ không thể đi liên với sự sụp đổ quốc gia và sự nghèo đói của nhân dân."''

==Chống phong trào cổ vũ đồng tính và chuyển giới==
Nga được xem như là một trong những quốc gia có thái độ phản đối gay gắt về vấn đề [[đồng tính luyến ái]], với các cuộc thăm dò gần đây cho thấy đa số người Nga không chấp nhận đồng tính luyến ái và đã bày tỏ sự ủng hộ đối với những quy định pháp luật phân biệt đối xử chống lại người đồng tính.<ref name=":0">[http://www.newsweek.com/russians-gay-sex-reprehensible-poll-778075 Most Russians Say Gay Sex Is 'Reprehensible' after 20-Year Spike in Homophobia, Poll Shows<!-- Bot generated title -->]</ref> Trong một cuộc thăm dò khác, 62,5% trong số 450 bác sĩ tâm thần được hỏi ý kiến ở Vùng Rostov coi đồng tính là một căn bệnh, và tới ba phần tư coi đó là hành vi vô đạo đức.<ref name=":0" />

Mặc dù nhận được sự chỉ trích từ phương Tây đối với tình trạng phân biệt đối xử, tội phạm và bạo lực chống lại người đồng tính, các thành phố lớn của Nga như Moskva và Sankt Peterburg được cho là có một cộng đồng LGBT phát triển mạnh<ref name="theguardian.com">{{chú thích báo|url=https://www.theguardian.com/cities/2015/jun/13/gay-putin-moscow-life-nightlife-clubbing-law-lgbt|title=Gay in Putin's Moscow: why the city is pinker than you think|work=[[The Guardian]]|date=ngày 13 tháng 6 năm 2015}}</ref><ref name="dailyxtra.com">{{chú thích báo|url=http://www.dailyxtra.com/world/travel/inside-the-gay-club-scene-in-st-petersburg-russia-86049|title=Inside the gay club scene in St Petersburg, Russia|work=[[Daily Xtra]]|date=ngày 31 tháng 5 năm 2014}}</ref>. Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin đã ra bộ luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về [[đồng tính luyến ái]] và [[hôn nhân đồng tính]]<ref>{{chú thích web | url = http://vtc.vn/cho-phep-hon-nhan-dong-gioi-am-muu-chinh-tri-khung-khiep-nham-vao-nga.311.560153.htm | tiêu đề = Cho phép hôn nhân đồng giới: Âm mưu chính trị khủng khiếp nhắm vào Nga - VTC News | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = Báo điện tử VTC News | ngôn ngữ = }}</ref> Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin ''"tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới"'' cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực nhằm tuyên dương những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại trào lưu cổ vũ [[đồng tính luyến ái]], đòi hợp pháp hóa [[hôn nhân đồng tính]] đến từ các nước phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu<ref>{{chú thích web | url = http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20130122/nga-xem-xet-luat-chong-nguoi-dong-tinh/531149.html | tiêu đề = Nga xem xét luật chống người đồng tính | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = [[Tuổi Trẻ (báo)|Tuổi Trẻ Online]] | ngôn ngữ = }}</ref> 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm<ref>{{chú thích web | url = https://www.lifesitenews.com/news/russia-will-deport-foreigners-for-homosexual-propaganda-duma-passes-bill-43 | tiêu đề = Russia will deport foreigners for homosexual propaganda; Duma passes bill 436 | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref> Tổng thống Putin cho biết chính sách cấm [[đồng tính luyến ái]] là vấn đề quan trọng cho việc duy trì dân số đất nước:
:''"Người châu Âu đang chết dần (do già hóa dân số)... và [[hôn nhân đồng tính]] không thể tạo ra trẻ em"'', ''"chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế vì đất nước của chúng tôi"''<ref>{{chú thích web | url = http://thinkprogress.org/lgbt/2013/09/19/2652771/putin-europeans-dying-allow-sex-couples-marry/ | tiêu đề = Putin: Europeans Are Dying Out Because They Allow Same-Sex Couples To Marry | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>.

Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố [[Moskva]] và quốc hội Nga đã đề ra [[Ngày tình yêu gia đình]] để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các [[tổ chức phi chính phủ]] đòi hợp pháp hóa [[hôn nhân đồng tính]]<ref>{{chú thích web | url = https://www.rt.com/politics/272416-russia-straight-flag-family/ | tiêu đề = United Russia activists create 'flag for straights' to oppose 'gay fever' | author = | ngày = | ngày truy cập = 4 tháng 2 năm 2018 | nơi xuất bản = RT International | ngôn ngữ = }}</ref>.

Ngày 24 tháng 7 năm 2023, Nga ban hành Luật cấm thực hiện chuyển đổi giới tính, trừ ngoại lệ là những người bị [[dị tật bẩm sinh]] ở bộ phận sinh dục. Các nhà lập pháp Nga nêu lý do ban hành luật này là nhằm bảo vệ các giá trị truyền thống của nước này trước ''"tư tưởng chống gia đình của phương Tây''"<ref>{{Cite news |title=Russian president signs legislation marking the final step outlawing gender-affirming procedures |url=https://apnews.com/article/russia-lgbtq-transgender-procedures-banned-21b88f53b9a74a646400d63ce93bde6f |access-date=25 July 2023 |work=AP News |date=24 July 2023 |language=en}}</ref> Một nguồn tin cho biết luật mới sẽ không chỉ để bảo vệ giá trị gia đình mà còn đảm bảo nguồn nhân lực cho [[quân đội Nga]]. Kể từ khi chiến tranh Nga-Ucraina năm 2022 nổ ra, đã có sự gia tăng đáng kể việc nam giới Nga trả tiền cho các phòng khám tư nhân để được cấp giấy xác nhận là người chuyển giới, sau đó họ có thể thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân để trốn [[nghĩa vụ quân sự]].<ref>{{ Cite news |url= https://www.firstpost.com/world/duma-to-ban-gender-reassignment-without-surgery-as-russian-men-go-for-sex-change-to-avoid-fighting-ukraine-12551312.html|title= Duma to ban gender reassignment without surgery as Russian men go for sex change to avoid fighting Ukraine |publisher=FirstPost| author= Ayndrila Banerjee|date=5 May 2023}}</ref> Chủ tịch Duma Quốc gia Nga [[Vyacheslav Volodin]] nói rằng việc cho phép chuyển giới đã gây ảnh hưởng xấu tới xã hội, khi số ca phẫu thuật chuyển giới ở Mỹ đã tăng 50 lần trong 10 năm qua, khoảng 1,4% thiếu niên Mỹ từ 13 - 17 tuổi đã tự coi mình là người chuyển giới vào năm 2022. Ông cho rằng ''"Đây là con đường dẫn đến sự suy thoái của một quốc gia''", và luật cấm chuyển giới được Nga ban hành để tránh viễn cảnh tương tự.<ref>{{ Cite news |title=President Putin Signs New Law Against Transgender, Banning Sex Change In Russia |url=https://saharareporters.com/2023/07/24/president-putin-signs-new-law-against-transgender-banning-sex-change-russia |access-date=25 July 2023 |work=Sahara Reporters |date=24 July 2023 |language=en}}</ref>

Nhà nghiên cứu [[Alexander Lapin]] giải thích lý do tại sao phương Tây tài trợ cho các phong trào ủng hộ đồng tính luyến ái và chuyển giới, và tại sao Nga lại cấm phong trào này<ref>{{Cite web|url= http://www.narodsobor.ru/view/kolonka-redaktora/13652-aleksandr-lapin-pochemu-neobxodimo-zapretit-propagandu-gomoseksualizma#.VtWyAvmLTIU |ngày truy cập=ngày 21 tháng 6 năm 2021 |title=Александр Лапин: Почему необходимо запретить пропаганду гомосексуализма |date=24 January 2013 }}</ref>:
:''Mục đích của những người ủng hộ hành vi biến thái tình dục - đó là làm suy yếu hệ thống miễn dịch của quốc gia... Các phong trào LGBT có sự tiếp sức từ bàn tay của các nhà tài trợ phương Tây. Không phải ngẫu nhiên khi [[Hillary Clinton]] cho biết rằng Mỹ sẽ "bảo vệ quyền lợi người đồng tính trên toàn thế giới". Nước Mỹ trong chính sách đối ngoại nói chung rất thích chiêu bài "bảo vệ các nhóm thiểu số" (tôn giáo, dân tộc, chính trị, xã hội và tình dục), qua đó Mỹ ngầm làm giảm đi bản sắc của các dân tộc, chế giễu lịch sử và văn hóa của họ. Và đồng tính luyến ái - được coi là "nét đẹp văn hóa", thay vì sự lệch lạc. Tất cả vì một mục tiêu - làm suy yếu hệ thống miễn dịch của các quốc gia.''

==Quân đội==
{{chính|Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga}}

[[Tập tin:4thTankDivisionOpenDay17p2-07.jpg|nhỏ|phải|250px|Lính Nga trong một cuộc tập trận năm 2017.]]

Nga thừa hưởng quyền kiểm soát các tài sản của Liên Xô ở nước ngoài và hầu hết các cơ sở chế tạo và ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Chapter 2—Investing In Russian Defense Conversion: Obstacles and Opportunities|nhà xuất bản=Federation of American Scientists|url=http://www.fas.org/nuke/guide/russia/industry/docs/rus95/rdbd4ch2.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Quân đội Nga được chia thành [[Các lực lượng lục quân Nga|Các lực lượng lục quân]], [[Hải quân Nga|Hải quân]], và [[Không quân Nga|Không quân]]. Cũng có ba nhánh quân đội độc lập: [[Các lực lượng tên lửa chiến lược]], [[Các lực lượng không gian Nga (VKS)|Các lực lượng quân sự không gian]], và [[Quân nhảy dù Nga|Quân nhảy dù]]. Năm 2014, Nga có 845.000 quân chính quy.

Nga có [[Nga và vũ khí huỷ diệt hàng loạt|kho vũ khí hạt nhân]] lớn nhất thế giới. Họ có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Hoa Kỳ có một lực lượng [[máy bay ném bom chiến lược]] hiện đại.<ref name=autogenerated2>{{Chú thích web|tiêu đề=Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities|nhà xuất bản=Federation of American Scientists|url=http://www.fas.org/nuke/guide/summary.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Lực lượng [[xe tăng]] Nga lớn nhất thế giới, đồng thời có lực lượng không quân và hải quân hùng hậu đứng thứ 3 thế giới.

Nước này có một ngành [[công nghiệp vũ khí]] lớn và phát triển thừa kế từ Liên Xô, có thể sản xuất hầu hết các loại trang thiết bị quân sự với chỉ một số ít loại vũ khí phải nhập khẩu. Tuy nhiên việc thiếu kinh phí mua sắm khiến năm 2010, chỉ có khoảng 10% vũ khí trang bị của Nga là được chế tạo mới sau năm 1991, phần lớn các thiết bị còn lại được chế tạo từ thời Xô Viết.<ref name="vtc.vn">[http://vtc.vn/10-264155/quoc-te/tin-tuc/cong-nghiep-quoc-phong-nga-da-lac-hau.htm Công nghiệp Quốc phòng Nga đã lạc hậu? - VTC News<!-- Bot generated title -->]</ref> Nga nằm trong top các quốc gia cung cấp vũ khí, chiếm 30% thị phần thế giới và có sản phẩm bán tới 80 quốc gia <ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Russia arms exports could exceed $7 bln in 2007 – Ivanov|nhà xuất bản=RIA Novosti|ngày truy cập=ngày 27 tháng 1 năm 2008|url=http://en.rian.ru/russia/20071224/93979601.html}}</ref>
.
Mọi công dân nam của Nga từ 18–27 tuổi phải [[đăng ký nghĩa vụ quân sự|đăng ký]] thực hiện nghĩa vụ một năm trong các lực lượng vũ trang. Hiện nay, quân đội Nga đã trải qua một quá trình nâng cấp [[Thiết bị quân sự|thiết bị]] lớn trị giá khoảng $200 tỷ trong giai đoạn 2006 đến 2015.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.guardian.co.uk/world/2007/feb/09/russia.usa|nhà xuất bản=Guardian|tiêu đề=Big rise in Russian military spending raises fears of new challenge to west|ngày truy cập=ngày 6 tháng 1 năm 2008}}</ref> Bộ trưởng quốc phòng [[Anatoliy Serdyukov]]<ref name="defensebrief">{{chú thích tạp chí|author=Pukhov, R.|date=2009|title=Serdyukov Cleans Up the Arbat|journal=[[Moscow Defense Brief]]|publisher=[[Centre for Analysis of Strategies and Technologies]]|issue=#1 (15) / 2009|url=http://mdb.cast.ru/mdb/1-2008/item2/article1/|access-date =ngày 19 tháng 5 năm 2009|archive-date = ngày 18 tháng 8 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080818210933/http://mdb.cast.ru/mdb/1-2008/item2/article1/|url-status=dead}}</ref> giám sát các cuộc cải cách lớn với mục đích chuyển đổi từ một quân đội tập trung đông đảo thành một lực lượng chuyên nghiệp nhỏ hơn.<ref name="barabanov">{{Chú thích web|url=http://cast.ru/eng/?id=333|tiêu đề=The Army's Chief Destroyer|tác giả 1=Barabanov, M|ngày=ngày 16 tháng 2 năm 2009|nhà xuất bản=The Moscow Times|ngày truy cập=ngày 19 tháng 5 năm 2009}}</ref>

Chính phủ Nga công bố ngân sách quốc phòng năm 2014 là 2,49 nghìn tỉ rub (tương đương 69,3 tỉ USD), lớn thứ 3 sau Mỹ và Trung Quốc. Ngân sách này sẽ tăng lên 3,03 nghìn tỉ rub (83,7 tỉ USD) năm 2015, 3,36 nghìn tỉ rub (93,9 tỉ USD) năm 2016.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Kazak|tên 1=Sergey|tiêu đề=Russia to Up Nuclear Weapons Spending 50% by 2016|url=http://en.ria.ru/military_news/20131008/184004336/Russia-to-Up-Nuclear-Weapons-Spending-50-by-2016.html|nhà xuất bản=RIA Novosti|ngày truy cập=ngày 1 tháng 3 năm 2014}}</ref>

== Phân cấp hành chính ==
{{chính|Phân cấp hành chính Nga}}
[[Tập tin:Russian Regions-EN.svg|nhỏ|500px|Các đơn vị hành chính của Liên bang Nga]]
''Xem thêm'':
* [[Vùng liên bang của Nga]] (''федеральные округа'')
* [[Chủ thể liên bang của Nga]] (''федеральные субъекты'')
* [[Nước cộng hòa thuộc Nga]] (''федеральные республики'')
* [[Tỉnh (Nga)|Tỉnh của Nga]] (''федеральные области'')
* [[Vùng của Nga]] (''федеральные края'')
* [[Tỉnh tự trị của Nga]] (''автономная область'')
* [[Khu tự trị của Nga]] (''автономные округа'')
* [[Thành phố liên bang của Nga]] (''города федерального значения'').

Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp [[liên bang]], tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) từ 01 Tháng Ba 2008 như vậy. Sáu loại đối tượng liên bang được phân biệt tại Nga có 22 nước [[cộng hòa]] trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 9 [[vùng của Nga|vùng]] (''krai'') và 46 [[tỉnh (Nga)|tỉnh]] (''oblast''), 3 [[thành phố liên bang của Nga|thành phố trực thuộc trung ương]] ([[Moskva]], [[Sankt-Peterburg]] và [[Sevastopol]]), 1 [[tỉnh tự trị của Nga|tỉnh tự trị]] (''avtonomnaya oblast'') và 4 [[khu tự trị của Nga|khu tự trị]] (''avtonomnyi okrug'').

Gần đây nhất, 8 [[Vùng liên bang của Nga|vùng liên bang]] lớn về diện tích (5 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.

Ngày 18 tháng ba 2014, Nga và Krym đã ký hiệp ước gia nhập của nước Cộng hoà Krym và [[thành phố liên bang của Nga|thành phố trực thuộc trung ương]] Sevastopol ở Liên bang Nga của Tổng thống Putin với Quốc hội. Trong giai đoạn chuyển tiếp này sẽ kéo dài đến 01 Tháng 1 năm 2015, hai bên sẽ giải quyết các vấn đề hội nhập các đối tượng mới "trong kinh tế, tài chính, tín dụng và hệ thống pháp luật của Liên bang Nga"
{{Đơn vị hành chính Nga}}

== Địa lý ==
{{chính|Địa lý Nga}}
Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa [[Lục địa Á-Âu|Á - Âu]]. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và [[khí hậu]] đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là [[Siberia]]. Các đồng bằng này chủ yếu là [[đồng cỏ|thảo nguyên]] về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các [[đài nguyên|tundra]] (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như [[Kavkaz]] (ở đây có đỉnh [[Elbrus]], là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5,633 m) và [[dãy núi Altay|dãy núi Altai]], cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như [[dãy Verkhoyansk]] hoặc các [[núi lửa]] trên [[bán đảo Kamchatka|Kamchatka]]. [[Dãy núi Ural|Dãy Ural]], là một dãy núi chạy theo hướng bắc - nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.

Nga có biên giới giáp với những quốc gia sau (từ tây bắc đến đông nam): [[Na Uy]], [[Phần Lan]], [[Estonia]], [[Latvia]], [[Litva]] và [[Ba Lan]] (cả hai đều qua [[Kaliningrad (tỉnh)|tỉnh Kaliningrad]]), [[Belarus]], [[Ukraina]], [[Gruzia]], [[Azerbaijan]], [[Kazakhstan]], [[Trung Quốc]], [[Mông Cổ]] và [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]]. Nước này cũng có biên giới trên biển với [[Nhật Bản]] (qua [[biển Okhotsk]]), [[Thổ Nhĩ Kỳ]] (qua [[biển Đen]]) và [[Hoa Kỳ]] (qua [[eo biển Bering]]), giáp với [[Canada]] qua [[Bắc Băng Dương]]. Nga cũng có [[Danh sách quốc gia theo diện tích rừng|diện tích rừng lớn nhất thế giới]] và các hồ của Nga chứa xấp xỉ 25% - tức 1/4 lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.<ref name=loc>{{Chú thích web|họ 1=Library of Congress|tiêu đề=Topography and drainage|url=http://countrystudies.us/russia/23.htm|ngày truy cập=ngày 26 tháng 12 năm 2007}}</ref>

Nga có đường bờ biển dài trên 37,000&nbsp;km dọc theo [[Bắc Băng Dương]] và [[Thái Bình Dương]]<ref>{{Chú thích web | url = http://diendankienthuc.net/diendan/dia-ly-chau-au/24119-dia-ly-nuoc-nga.html | tiêu đề = Địa lý nước NGA | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 30 tháng 4 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = | archive-date = ngày 13 tháng 7 năm 2012 | archive-url = https://archive.today/20120713082109/diendankienthuc.net/diendan/dia-ly-chau-au/24119-dia-ly-nuoc-nga.html | url-status = bot: unknown }}</ref>, cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như [[biển Baltic]], [[biển Đen]] và [[biển Caspi]]. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như [[biển Barents]], [[Biển Trắng|Bạch Hải]], [[biển Kara]], [[biển Laptev]] và [[biển Đông Siberi]] là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như [[biển Bering]], [[biển Okhotsk]] và [[biển Nhật Bản]] thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm [[Novaya Zemlya]], [[mũi Franz-Josef]], [[quần đảo Tân Siberi]], [[đảo Wrangel]], [[quần đảo Kuril]] và [[Sakhalin]]. (Xem).
{{Location map+|Nga|width=1150|caption=Bản đồ địa lý tự nhiên của Nga cùng với các vùng trên bản đồ. Chú thích:
* Hình ngôi sao: thủ đô
* Hình chấm tròn: các thành phố và thủ phủ các bang
* Hình tam giác: các trung tâm hành chính.|alt=Nga trong Lục địa Á-Âu|relief=1|places={{Location map~ | Russia
| label = '''[[Moskva]]'''
| position =
| background =
| mark = Etoile-Rouge.svg
| alt = alt text for Moscow
| link = Mosva
| lat_deg = 55 | lat_min = 45 | lat_dir = N
| lon_deg = 37 | lon_min = 37 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Sankt Peterburg|Sankt.&nbsp;Peterburg]]
| position =
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Saint Petersburg
| link = Sankt Peterburg
| lat_deg = 59 | lat_min = 57 | lat_dir = N
| lon_deg = 30 | lon_min = 18 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Veliky Novgorod|Novgorod]]</small>
| position = bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Veliky Novgorod
| link = Veliky Novgorod
| lat_deg = 58 | lat_min = 33 | lat_dir = N
| lon_deg = 31 | lon_min = 16 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Novosibirsk]]
| position =bottom
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Novosibirsk
| link = Novosibirsk
| lat_deg = 55 | lat_min = 03 | lat_dir = N
| lon_deg = 82 | lon_min = 57 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Yekaterinburg]]
| position =
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Yekaterinburg
| link = Yekaterinburg
| lat_deg = 56 | lat_min = 50 | lat_dir = N
| lon_deg = 60 | lon_min = 35 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Nizhny Novgorod|Nizhny&nbsp;Novgorod]]
| position =
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Nizhny Novgorod
| link = Nizhny Novgorod
| lat_deg = 56 | lat_min = 19 | lat_dir = N
| lon_deg = 44 | lon_min = 00 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Kazan]]</small>
| position =left
| background =
| mark =
| alt = alt text for Kazan
| link = Kazan
| lat_deg = 55 | lat_min = 47 | lat_dir = N
| lon_deg = 49 | lon_min = 07 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Chelyabinsk]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Chelyabinsk
| link = Chelyabinsk
| lat_deg = 55 | lat_min = 09 | lat_dir = N
| lon_deg = 61 | lon_min = 22 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Omsk]]</small>
| position =bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Omsk
| link = Omsk
| lat_deg = 54 | lat_min = 59 | lat_dir = N
| lon_deg = 73 | lon_min = 22 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Samara]]</small>
| position =left
| background =
| mark =
| alt = alt text for Samara
| link = Samara, Russia
| lat_deg = 53 | lat_min = 12 | lat_dir = N
| lon_deg = 50 | lon_min = 08 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Rostov trên sông Đông|Rostov]]
| position =top
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Rostov-on-Don
| link = Rostov-on-Don
| lat_deg = 47 | lat_min = 14 | lat_dir = N
| lon_deg = 39 | lon_min = 42 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Ufa]]</small>
| position =bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Ufa
| link = Ufa
| lat_deg = 54 | lat_min = 45 | lat_dir = N
| lon_deg = 55 | lon_min = 58 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Krasnoyarsk]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Krasnoyarsk
| link = Krasnoyarsk
| lat_deg = 56 | lat_min = 01 | lat_dir = N
| lon_deg = 93 | lon_min = 04 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Perm]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Perm
| link = Perm
| lat_deg = 58 | lat_min = 00 | lat_dir = N
| lon_deg = 56 | lon_min = 19 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Voronezh]]</small>
| position =left
| background =
| mark =
| alt = alt text for Voronezh
| link = Voronezh
| lat_deg = 51 | lat_min = 40 | lat_dir = N
| lon_deg = 39 | lon_min = 12 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Volgograd]]</small>
| position =bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Volgograd
| link = Volgograd
| lat_deg = 48 | lat_min = 42 | lat_dir = N
| lon_deg = 44 | lon_min = 31 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Arkhangelsk]]</small>
| position =bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Arkhangelsk
| link = Arkhangelsk
| lat_deg = 64 | lat_min = 32 | lat_dir = N
| lon_deg = 40 | lon_min = 32 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Pyatigorsk]]
| position =bottom
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Pyatigorsk
| link = Pyatigorsk
| lat_deg = 44 | lat_min = 03 | lat_dir = N
| lon_deg = 43 | lon_min = 03 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Sochi]]</small>
| position =top
| background =
| mark =
| alt = alt text for Sochi
| link = Sochi
| lat_deg = 43 | lat_min = 35 | lat_dir = N
| lon_deg = 39 | lon_min = 43 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Irkutsk]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Irkutsk
| link = Irkutsk
| lat_deg = 52 | lat_min = 17 | lat_dir = N
| lon_deg = 104 | lon_min = 17 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Yakutsk]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Yakutsk
| link = Yakutsk
| lat_deg = 62 | lat_min = 02 | lat_dir = N
| lon_deg = 129 | lon_min = 44 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = [[Khabarovsk]]
| position =bottom
| background =
| mark = City locator 26.svg
| alt = alt text for Khabarovsk
| link = Khabarovsk
| lat_deg = 48 | lat_min = 29 | lat_dir = N
| lon_deg = 135 | lon_min = 05 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Vladivostok]]</small>
| position =right
| background =
| mark =
| alt = alt text for Vladivostok
| link = Vladivostok
| lat_deg = 43 | lat_min = 08 | lat_dir = N
| lon_deg = 131 | lon_min = 54 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Magadan]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Magadan
| link = Magadan
| lat_deg = 59 | lat_min = 34 | lat_dir = N
| lon_deg = 150 | lon_min = 48 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Yuzhno-Sakhalinsk]]</small>
| position =right
| background =
| mark =
| alt = alt text for Yuzhno-Sakhalinsk
| link = Yuzhno-Sakhalinsk
| lat_deg = 46 | lat_min = 58 | lat_dir = N
| lon_deg = 142 | lon_min = 44 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Petropavlovsk-Kamchatsky]]</small>
| position =bottom
| background =
| mark =
| alt = alt text for Petropavlovsk-Kamchatsky
| link = Petropavlovsk-Kamchatsky
| lat_deg = 53 | lat_min = 01 | lat_dir = N
| lon_deg = 158 | lon_min = 39 | lon_dir = E
}}
{{Location map~| Russia
| label = <small>[[Kaliningrad (tỉnh)|Kaliningrad]]</small>
| position =
| background =
| mark =
| alt = alt text for Kaliningrad
| link = Kaliningrad Oblast
| lat_deg = 54 | lat_min = 42 | lat_dir = N
| lon_deg = 20 | lon_min = 27 | lon_dir = E
}}}}

Các hồ chính bao gồm [[hồ Baikal]], [[hồ Ladoga]], [[biển Caspi|biển hồ Caspi]] và [[hồ Onega]].
[[Tập tin:Осетр река.jpg|nhỏ|[[Nội địa Trung Nga]] gần [[Zaraysk]], [[Moskva (tỉnh)|Tỉnh Moskva]]]]
[[Tập tin:Caucasus, Russia (Dombay).jpg|nhỏ|Dãy [[Đại Kavkaz]] gần [[Dombay, Cộng hoà Karachay-Cherkess|Dombay]], [[Karachay-Cherkessia]]]]
[[Tập tin:Vasyugan.jpg|nhỏ|Các đồng bằng phía tây [[Siberia]], [[Vasyugan|Sông Vasyugan]], [[Tomsk (tỉnh)|Tỉnh Tomsk]].]]
[[Tập tin:Archangelsk taiga.JPG|nhỏ|Rừng [[Taiga]] mùa đông, [[Arkhangelsk (tỉnh)|Tỉnh Arkhangelsk]].]]

=== Biên giới ===
Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực [[Kaliningrad]] ở phía đông nam của [[biển Baltic]]).

Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:

* Biên giới với các quốc gia sau: [[Na Uy]] và [[Phần Lan]]
* Bờ biển ngắn trên biển Baltic, tiếp giáp với 8 quốc gia khác trên biển này, từ Phần Lan tới [[Estonia]] và bao gồm cả [[cảng St. Petersburg]].
* Biên giới với [[Estonia]], [[Latvia]], [[Belarus]] và [[Ukraina]].
* Bờ biển trên biển Đen, tiếp giáp với 5 quốc gia khác từ Ukraina tới [[Gruzia]].
* Biên giới với [[Gruzia]] và [[Azerbaijan]].
* Bờ biển trên [[biển Caspi]], tiếp giáp với 4 quốc gia khác từ Azerbaijan tới [[Kazakhstan]].
* Biên giới với Kazakhstan, [[Trung Quốc]], [[Mông Cổ]], Trung Quốc một lần nữa và [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|Bắc Triều Tiên]].
* Đường bờ biển mở rộng cho phép đi lại và giao thương với tất cả các quốc gia có lãnh thổ biển trên toàn thế giới, và kéo dài
** Từ bắc [[Thái Bình Dương]] bao gồm:
*** [[Biển Nhật Bản]] (trong đó có bờ biển phía tây của [[Sakhalin]] thuộc Nga).
*** [[Biển Okhotsk]] (trong đó có bờ biển phía đông của [[Sakhalin]] và [[quần đảo Kuril]]), và
*** [[Biển Bering]],
** Dọc theo [[eo biển Bering]] (trong đó đảo thuộc Nga [[Diomede Lớn]] bị chia cắt chỉ vài dặm với [[Diomede nhỏ|Diomede Nhỏ]], một phần thuộc [[Alaska]] của [[Hoa Kỳ]]),
** [[Bắc Băng Dương]], bao gồm:
*** [[Biển Chukotka|Biển Chukchi]] (trong đó có bờ biển phía đông và nam của [[đảo Wrangel]]),
*** [[Biển Đông Siberi]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga và bờ phía đông của [[quần đảo Tân Siberi]]),
*** [[Biển Laptev]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga,
*** [[Biển Kara]] (trong đó có bờ biển phía đông của [[Novaya Zemlya]] (Đất mới)),
*** [[Biển Barents]] (trong đó có bờ biển phía tây của Nga, bờ biển phía nam của [[Mũi Franz-Josef]] và cảng [[Murmansk]] với các thiết chế hàng hải quan trọng nằm ở đó, ở đó [[Biển Trắng|Bạch Hải]] ăn sâu vào đất liền nhất).

Phần tách rời là [[Kaliningrad (tỉnh)|tỉnh Kaliningrad]], tỉnh này có:
* Chung biên giới với:
** [[Ba Lan]] ở phía nam
** [[Litva]] về phía bắc và đông
* Bờ biển phía tây bắc nhìn ra biển Baltic.

Các bờ biển thuộc các [[biển Baltic]] và [[biển Đen]] của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Baltic cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh [[Kaliningrad]]. Thông qua eo biển nằm trong [[Đan Mạch]], và giữa nó với [[Thụy Điển]] thì biển Baltic thông ra [[biển Bắc]] và [[Đại Tây Dương]] về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển [[Dardanéllia|Dardanelles]] và [[Biển Marmora|Marmora]] liền kề với [[Istanbul]], [[Thổ Nhĩ Kỳ]] để nối vào [[Địa Trung Hải]] với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua [[kênh đào Suez]] để sang [[Ấn Độ Dương]] và [[eo biển Gibraltar]] để sang Đại Tây Dương. [[Biển Caspi]], hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.

=== Phạm vi không gian ===
Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8,000&nbsp;km trên [[đường trắc địa]] (''geodesic''). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với [[Ba Lan]], trên một khoảng đất dài 60&nbsp;km chia [[vịnh Gdańsk]] với [[phá Vistula]]. Còn điểm kia nằm tại cực đông - nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh [[hokkaidō|đảo Hokkaido]] của [[Nhật Bản|Nhật]].

Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 [[múi giờ]]. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo [[kinh tuyến]] chỉ cách nhau 6,600&nbsp;km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên [[Diomede Lớn|đảo Diomede Lớn]] (''đảo Ratmanova''). Và hơn nữa, [[chính phủ Nga]] đã quyết định giảm số múi giờ từ 11 xuống 9, thậm chí là 5 để phát triển kinh tế.<ref>[http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/quoc-te/2010/03/3ba1a34b/ Nga bớt 2 múi giờ để phát triển kinh tế]</ref>

=== Khí hậu ===
{{chính|Khí hậu Nga}}
Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu [[khí hậu lục địa ẩm]] và [[Khí hậu cận Bắc Cực|cận Bắc Cực]], là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam. Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ [[Ấn Độ Dương]], trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ [[Bắc Cực]] và [[Đại Tây Dương]].<ref name=congress>{{Chú thích web|tiêu đề=Climate|nhà xuất bản=Library Of Congress|url=http://countrystudies.us/russia/24.htm|ngày truy cập=ngày 26 tháng 12 năm 2007}}</ref>

[[Tập tin:Birches near Novosibirsk in Autumn.jpg|đứng|nhỏ|180px|Một khu rừng [[Cáng lò|bulô]] tại [[Siberia]], [[Novosibirsk (tỉnh)|tỉnh Novosibirsk]]. Bulô là loại [[Danh sách quốc thụ|cây quốc gia]] của Nga.]]
Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao<ref name=congress/>. Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông. Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại [[Siberia]]. Một phần nhỏ của bờ [[Biển Đen]] quanh [[Sochi]] có [[Cận nhiệt đới|khí hậu cận nhiệt đới]].<ref>{{chú thích tạp chí|author=Drozdov, V. A.|title=Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea|url=https://archive.org/details/sim_geojournal_1992-06_27_2/page/169|journal=GeoJournal|publisher=Springer Netherlands|location=27.2, pp. 169–178|year=1992|doi=10.1007/BF00717701|volume=27|pages=169}}</ref> Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.

=== Động thực vật ===
{{chính|Danh sách các vùng sinh thái tại nga|Danh sách các loại thú có vú của Nga|Danh sách các loại chim của Nga}}

Từ bắc xuống nam [[đồng bằng Đông Âu]], cũng được gọi là [[Đồng bằng Đông Âu|đồng bằng Nga]], bị bao phủ trong ''[[đài nguyên|lãnh nguyên]]'' Bắc Cực, những cánh rừng lá kim (''[[taiga]]''), những cánh rừng hỗn giao, đồng cỏ (''[[đồng cỏ|thảo nguyên]]'') và bán hoang mạc (bao quanh [[Biển Caspi]]an), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. [[Siberia]] cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là [[taiga]]. Nga có [[Danh sách quốc gia theo diện tích rừng|trữ lượng rừng]] lớn nhất thế giới,<ref name=autogenerated1>{{Chú thích web|họ 1=Library of Congress|tiêu đề=Topography and Drainage|url=http://countrystudies.us/russia/23.htm|ngày truy cập=ngày 26 tháng 12 năm 2007}}</ref> được gọi là ''"lá phổi của châu Âu"'',<ref name=guardianforest>{{Chú thích web|tác giả 1=Walsh, NP|tiêu đề =It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood|nhà xuất bản =Guardian (UK)|url=http://www.guardian.co.uk/world/2003/sep/19/environment.russia|ngày truy cập=ngày 26 tháng 12 năm 2007}}</ref> đứng thứ hai chỉ sau [[rừng mưa Amazon]] về khối lượng hấp thụ [[CO2|CO<sub>2</sub>]]. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn [[oxy]] không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.
{|
|-
|[[Tập tin:Medved mzoo.jpg|nhỏ|200px|[[Gấu xám]] là một [[Gấu Nga|biểu tượng của Nga]].]] || [[Tập tin:Amur Tiger Panthera tigris altaica Cub Walking 1500px.jpg|nhỏ|200px|Nơi sinh sống tự nhiên của [[Hổ Amur]] là vùng [[Viễn Đông Nga]].]]
|}
Có [[Danh sách các loài có vú của Nga|266 loài có vú]] và [[Danh sách các loài chim của Nga|780 loài chim]] tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào [[Sách Đỏ Nga]] vào năm 1997,<ref>{{Chú thích web |url=http://enrin.grida.no/biodiv/biodiv/national/russia/state/00440.htm |ngày truy cập=2009-11-17 |tựa đề=list of animals of Red Data Book of Russian Federation (ngày 1 tháng 11 năm 1997) |archive-date = ngày 28 tháng 4 năm 2016 |archive-url=https://archive.today/20160428185844/http://enrin.grida.no/biodiv/biodiv/national/russia/state/00440.htm |url-status=dead }}</ref> và hiện đang được bảo vệ.

== Kinh tế ==
{{chính|Kinh tế Nga}}
[[Tập tin:Деревня Малиновка.JPG|nhỏ|Một nông trại nhỏ tại Malinovka.]]
Nga có một nền kinh tế hỗn hợp có thu nhập trung bình cao với nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, đặc biệt là dầu mỏ và khí tự nhiên. Quốc gia này có diện tích lớn nhất trên thế giới và là nhà sản xuất dầu lửa lớn nhất, vào năm 2016 kinh tế Nga đứng hàng thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 5 [[châu Âu]] theo GDP danh nghĩa hoặc đứng thứ 6 trên thế giới và đứng thứ 2 [[châu Âu]] theo GDP theo sức mua tương đương (~3.300 tỷ USD năm 2016<ref name="books.google.com.vn">[https://books.google.com.vn/books?id=euRfDwAAQBAJ&pg=PA49&lpg=PA49&dq=russia+ppp+2016+2nd+europe&source=bl&ots=6msyLrD2PW&sig=S7umbhbvWqYniOd6Dk_P8538eDA&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwi-i8qi3PfbAhWGAYgKHUnOBRc4ChDoAQgzMAM#v=onepage&q=russia%20ppp%202016%202nd%20europe&f=false Russia's Response to Sanctions: How Western Economic Statecraft is Reshaping... - Richard Connolly - Google Sách<!-- Bot generated title -->]</ref>)

Hơn hai thập kỷ sau sự [[sụp đổ của Liên Xô]] năm [[1991]], Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền [[kinh tế thị trường]] và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan [[quyền hành pháp|hành pháp]] và [[cơ quan lập pháp|lập pháp]] còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1997, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.

Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa [[thập niên 1950]] cao hơn so với công dân của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như [[México]], [[Brasil]], [[Ấn Độ]] và [[Argentina]]. Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản về mẫu mã, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị.

Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm [[1997]]. Trong năm đó, cuộc [[khủng hoảng tài chính châu Á 1997|khủng hoảng tài chính châu Á]] đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng [[rúp Nga|rúp]] vào tháng 8 năm [[1998]], làm cho chính phủ bị [[vỡ nợ]] và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.

[[Tập tin:Rosneft-azs.jpg|nhỏ|trái|Một trạm xăng của [[Rosneft]]. Nga là [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu khí tự nhiên|nhà xuất khẩu khí tự nhiên]] lớn nhất và [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu dầu mỏ|nhà xuất khẩu dầu mỏ]] đứng thứ hai thế giới.]]
Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]] tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn [[1999]]-[[2004]] trên cơ sở của giá [[dầu mỏ]] cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.

Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm [[2000]]-[[2001]] để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, [[khí thiên nhiên|khí đốt]], kim loại và [[gỗ]], các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa. Những năm tiếp theo, tiêu thụ nội địa cao hơn và nền chính trị ổn định hơn đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Nga. Từ 1999-2008 kinh tế nước Nga đã liên tục có tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng tăng trưởng đã chậm lại ở vài năm sau đó với sự suy giảm của giá dầu và khí đốt.

Với việc [[Hoa Kỳ]], [[Liên minh châu Âu]] và các quốc gia khác áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga sau sự kiện Nga sáp nhập [[Crimea]] bất hợp pháp vào năm 2014 cùng với sự sụt giảm mạnh của giá dầu trong năm đó, nền kinh tế Nga đã lâm vào một cuộc [[Khủng hoảng tài chính Nga năm 2014|khủng hoảng tài chính]] sâu sắc <ref name="financialcrisis">{{Chú thích web|url=http://www.wsj.com/articles/yield-seekers-prone-to-russias-disease-heard-on-the-street-1418767459|tiêu đề=Yield Seekers Prone to Russia's Disease|tác giả 1=Justin Lahart|ngày=ngày 16 tháng 12 năm 2014|ngày truy cập=ngày 16 tháng 12 năm 2014|work=Wall Street Journal}}</ref><ref name="sanctions">{{Chú thích web|url=http://www.bloomberg.com/news/ngày 16 tháng 12 năm 2014/u-s-won-t-ease-sanctions-to-prevent-economic-meltdown-in-russia.html|tiêu đề=U.S. Won't Ease Sanctions to Stem Russia's Economic Crisis|tác giả 1=Mike Dorning and Ian Katz|ngày=ngày 16 tháng 12 năm 2014|ngày truy cập=ngày 16 tháng 12 năm 2014|work=Bloomberg}}</ref>. Cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Nga, bao gồm cả người tiêu dùng và các công ty, cũng như có một tác động tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế đã cho thấy, chính người dân Nga đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng này mang lại. Lệnh cấm vận của Phương Tây cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và tiêu dùng của Nga. Việc giá cả sẽ tăng do tình trạng thiếu hụt và lạm phát tăng, dẫn đến tiết kiệm giảm, tiền lương giảm và thất nghiệp gia tăng, hệ quả là chất lượng cuộc sống của người dân Nga giảm sút, đặc biệt là các gia đình trung lưu và những người Nga nghèo. Vào năm 2016, mức lương trung bình của người Nga chỉ là 450 $ một tháng (so với mức 967$ một tháng vào năm 2013), thấp hơn cả [[Trung Quốc]] và [[Ba Lan]] <ref>{{Chú thích web|url=https://www.rbth.com/business/2016/05/20/the-average-salary-in-russia-is-now-lower-than-in-china-and-poland_594893|tiêu đề=The average salary in Russia is now lower than in China and Poland|nhà xuất bản=rbth}}</ref>. Tỉ lệ người sống dưới mức nghèo ở Nga đang có chiều hướng gia tăng, từ 16.1 triệu người năm 2015 đã nhảy vọt lên con số 19.2 triệu người năm 2016 <ref>{{chú thích báo|work=The Wall Street Journal|title=Number of Russians Living in Poverty Rises|url= https://www.wsj.com/articles/number-of-russians-living-in-poverty-rises-1458581478|date=ngày 21 tháng 3 năm 2016}}</ref>. Đổng rúp của Nga cũng liên tục mất giá. Tính đến tháng 3 năm 2016, giá trị của đồng rúp chỉ còn bằng 50% so với thời điểm tháng 7 năm 2014 <ref name="Nasdaq Mar2016">{{chú thích web|url=http://www.nasdaq.com/article/bank-of-russia-keeps-rates-on-hold-20160318-00172|title=Today's Stock Market News and Analysis from Nasdaq.com|website=NASDAQ.com}}</ref>.

Năm 2016, GDP của Nga đạt 3.300 tỷ USD theo [[sức mua tương đương]], làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu<ref name="books.google.com.vn"/>. Năm 2021, GDP của Nga đạt 4.020 tỷ USD theo [[sức mua tương đương]], vẫn là nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu.

Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các [[doanh nghiệp nhỏ và vừa|xí nghiệp nhỏ và vừa]] (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các [[tài phiệt Nga]] (''oligarkhi''). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn. [[Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu]] (EBRD) và [[Ngân hàng Thế giới|Ngân hàng thế giới]] (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là không đáng kể.

Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với [[thu nhập bình quân đầu người|thu nhập trên đầu người]] nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như [[Sankt-Peterburg]], [[Kaliningrad]] và [[Yekaterinburg|Ekaterinburg]].
[[Tập tin:Moscow, City May 2010 03.JPG|nhỏ|Trung tâm Thương mại quốc tế Moskva, Nga.]]
Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các [[nông thôn]], khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.

Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là [[Mikhail Khodorkovsky]] với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống [[Boris Nikolayevich Yeltsin|Boris Yeltsin]] đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng "có lựa chọn" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo [[Quỹ Tiền tệ Quốc tế|Quỹ tiền tệ quốc tế]] (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).

Tuy nhiên, chính phủ của ông Putin đã bị chỉ trích rằng đã không tạo ra được một môi trường kinh doanh thân thiện, không đẩy lùi được nạn tham nhũng và không gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực có thể đưa nền kinh tế Nga bớt phụ thuộc vào việc xuất khẩu [[năng lượng]]. Khu vực [[dầu mỏ]] và [[khí đốt]] của Nga chiếm tới gần 25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và khoảng 30% tổng thu nhập ngân sách quốc gia.

Trong giai đoan 2000-2009, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của nền kinh tế Nga đạt 5%; trong giai đoạn 2010-2019, mức tăng trưởng trung bình hằng năm sụt giảm còn 1,8%, trong đó năm 2015 và 2016 đều trải qua suy thoái. Sau năm 2015, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của Nga giảm xuống còn 0,4%.<ref name="antg.cand.com.vn">{{Chú thích web|url=http://antg.cand.com.vn/Kinh-te-Van-hoa-The-Thao/Nga-tim-loi-thoat-kinh-te-575699/|tựa đề=Nga tìm lối thoát kinh tế}}</ref> Vì những nguyên nhân nói trên, Nga đã chuyển từ một điểm đến đầu tư tốt nhất thế giới trong giai đoạn 2000-2009 thành một nước có rủi ro cao và thiếu sức hấp dẫn. Lý do chính cho sự kém hiệu quả của nền kinh tế Nga trong giai đoạn 2010-2019 là do các động lực tăng trưởng của thập kỷ trước đã cạn kiệt nhưng chính phủ Nga lại lựa chọn tăng quỹ dự trữ thay vì nâng cao hiệu quả kinh tế,<ref name="antg.cand.com.vn"/>

Các nhà kinh tế chỉ ra một vấn đề của Nga là việc chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu thô như những năm 2000, khiến giá cả thị trường phụ thuộc vào biến động của thế giới. Chính quyền Putin đã nhiều lần hứa sẽ biến đổi đất nước từ đơn giản là một nhà xuất khẩu nguyên liệu thô sang một quốc gia đa dạng hơn, dựa trên các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, nhưng chưa cho thấy hiệu quả.<ref name="kinhtedothi.vn">{{Chú thích web|url=http://kinhtedothi.vn/nuoc-nga-20-nam-sau-loi-hua-cua-tong-thong-putin-361355.html|tựa đề=Nước Nga 20 năm sau lời hứa của Tổng thống Putin}}</ref>

=== Công nghiệp ===
[[Tập tin:UAZ-452.jpg|nhỏ|240px|Xe [[UAZ-452]], một sản phẩm công nghiệp phổ biến của hãng [[UAZ]] đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Hình chụp năm 2009.]]
Nga được thừa hưởng nền tảng công nghiệp rất mạnh của [[Liên Xô]], siêu cường công nghiệp đứng thứ 2 thế giới. Sau khi Liên Xô tan rã, khoảng 60% các cơ sở công nghiệp của Liên Xô thuộc về lãnh thổ Nga, các cơ sở này đảm bảo duy trì được vị thế cường quốc công nghiệp của Nga trên thế giới.

Tuy nhiên, giai đoạn kinh tế trì trệ thập niên 1990 khiến các cơ sở công nghiệp của Nga bị suy yếu đi nhiều. Theo kết quả khảo sát 2013 do Trung tâm nghiên cứu vĩ mô (CMR) của ngân hàng [[Sberbank]] của Nga công bố thì nền tảng công nghiệp Nga đang bị lão hóa. Gần 60% các xí nghiệp Nga cần nâng cấp trang thiết bị trong vòng 3 năm tới để duy trì hoạt động cũng như thị phần nội địa. Các mặt hàng công nghiệp nhẹ của Nga có [[sức cạnh tranh]] trên [[thị trường thế giới]] tương đối yếu trong [[tương lai]] gần. Có tới 36% xí nghiệp được hỏi ý kiến cho biết họ không có kế hoạch mở rộng sản xuất trong vòng 5 năm tới; 38% nói có lẽ họ sẽ mở rộng trên [[thị trường nội địa]]; 19% nhắm vào các thị trường gần là các nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và chỉ có 9% có kế hoạch mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới trong dài hạn. Gần 83% [[xí nghiệp]] Nga được hỏi ý kiến nói họ chỉ có thể bán sản phẩm trên thị trường trong nước, trong khi 88% nói nguồn cung chủ yếu cho xí nghiệp về [[nguyên vật liệu|nguyên liệu]] và thiết bị là nguồn cung nội địa<ref name="tamnhin.net">[https://archive.today/20130502132056/tamnhin.net/Phantich/12188/Vi-sao-cong-nghiep-Nga-phat-trien-tri-tre.html Vì sao công nghiệp Nga phát triển trì trệ? | Báo điện tử Tầm Nhìn<!-- Bot generated title -->]</ref>
[[Tập tin:Iran Air Force Mikoyan-Gurevich MiG-29UB Sharifi.jpg|nhỏ|300px|trái|Máy bay [[MiG-29]] của Nga phục vụ trong [[quân đội Iran]] (2011)]]

Theo Phó Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Nga Sergei Tsyb thì lĩnh vực công cụ máy móc công nghiệp Nga đang nhập khẩu lên tới 90%, kỹ thuật máy hạng nặng đang nhập khẩu khoảng từ 60-80% và ngành công nghiệp điện tử nhập khẩu từ 80-90%. Để giảm sự phụ thuộc của Nga vào các nhà cung cấp phương Tây trong hầu hết các ngành công nghiệp quan trọng như trên, Nga dự kiến sẽ giảm chỉ số nhập khẩu từ 70-90% xuống còn 50-60% vào năm 2020 nhưng việc thay thế hoàn toàn việc nhập khẩu là điều không thể.<ref>[https://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/cong-nghiep-quoc-phong-nga-ra-sao-khi-bi-phuong-tay-o-ep-808873.tpo Công nghiệp quốc phòng Nga ra sao khi bị Phương Tây o ép? - 10-01-2015 | Người lính | Báo điện tử Tiền Phong<!-- Bot generated title -->]</ref>

Trong thời [[Chiến tranh Lạnh]], các [[tổ hợp công nghiệp]] của [[Liên Xô]] đảm bảo duy trì nền quân sự Xô viết mạnh mẽ với nguồn ngân sách thường chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô. [[Công nghiệp vũ khí]] của Nga là khu vực hiện đại nhất và nằm trong định hướng xuất khẩu của Nga. Xuất khẩu vũ khí của Nga luôn giữ vị trí thứ 2 trên thế giới về giá trị.

Nếu như tại Mỹ, các tổ hợp công nghiệp quốc phòng và các dự án vũ trụ tập trung vào một số tập đoàn khổng lồ độc quyền và một hệ thống dịch vụ hậu cần làm việc dưới sự chỉ đạo của Bộ quốc phòng và [[NASA]] thì nền công nghiệp quốc phòng Nga hiện nay phân tán thành rất nhiều các [[xí nghiệp]] nhỏ. Với một chu trình sản xuất cồng kềnh và nhiều tầng nấc như vậy khó có thể đạt được một kết quả tích cực và đột phá nào trong ngành công nghiệp quốc phòng vì mâu thuẫn lợi ích của rất nhiều thành viên tham gia vào chu trình sản xuất đó<ref name="baodatviet.vn">{{Chú thích web |url=http://www.baodatviet.vn/the-gioi/ho-so/noi-dau-nguoi-nga-va-bai-hoc-cho-viet-nam-2357681/ |ngày truy cập=2013-12-10 |tựa đề=Nỗi đau người Nga và bài học cho Việt Nam - DVO - Báo Đất Việt<!-- Bot generated title --> |archive-date=2013-12-13 |archive-url=https://web.archive.org/web/20131213164441/http://www.baodatviet.vn/the-gioi/ho-so/noi-dau-nguoi-nga-va-bai-hoc-cho-viet-nam-2357681/ |url-status=dead }}</ref>. Độ tuổi trung bình của những người đang làm việc trong các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga là từ 55 đến 57 (số liệu tháng 5/2013). 30% trong số đó đã ngoài 60 trong khi giới trẻ không chịu vào làm việc vì lương thấp. Để khắc phục những vấn đề này, hiện nay, Nga đang tiến hành sáp nhập các nhà máy quốc phòng thành các tổ hợp lớn hơn để khắc phục những điểm yếu trên và nâng cao sức cạnh tranh{{fact}}.

[[Tập tin:RIAN archive 132570 Packing up processed ingots.jpg|nhỏ|280px|Công nhân kỹ thuật sản xuất bên trong nhà máy hóa chất OAO Novosibirsk]]
Nước Nga hiện nay được thừa hưởng từ chế độ Xô Viết ba nhóm công nghiệp cơ bản với khả năng cạnh tranh cực cao là các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng, ngành [[công nghệ vũ trụ]] và chế tạo máy và trang thiết bị [[công nghệ hạt nhân]]. Các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng và công nghiệp vũ trụ, trong vòng 20 năm từng lâm vào tình trạng suy thoái. Các kỹ sư của các xí ngiệp công nghiệp quốc phòng Nga lớn nhất phải thực tập ở 5 trung tâm công nghệ ở [[Ý]] và [[Đức]].<ref>[http://kienthuc.net.vn/tin-tuc-quan-su/ky-su-cnqp-nga-sang-duc-italy-hoc-hoi-250576.html Kỹ sư CNQP Nga sang Đức, Italy "học hỏi" | Tin tức | Kienthuc.net.vn<!-- Bot generated title -->]</ref> Tuy nhiên với sự quan tâm và rót ngân sách từ chính phủ, hiện nay các ngành này đang phát triển trở lại{{fact}}. Từ sau khi Mỹ ngừng sử dụng tàu con thoi năm 2010, Nga là nước duy nhất có thể tự tiến hành việc phóng tên lửa lên vũ trụ để vận chuyển hàng cho trạm vũ trụ quốc tế ISS. Để thay thế tàu con thoi cũ, tên lửa SpaceX của Mỹ đã 9 lần phóng thành công lên quỹ đạo, mục tiêu là có thể tái sử dụng nhiều lần<ref>[http://www.tapchigiaothong.vn/spacex-lan-thu-9-phong-thanh-cong-ten-lua-len-tram-iss-d29053.html SpaceX lần thứ 9 phóng thành công tên lửa lên trạm ISS | Tạp chí giao thông vận tải<!-- Bot generated title -->]</ref>, tuy nhiên SpaceX mới hạ cánh thành công 2 lần và đến cuối 2016 mới thử nghiệm sử dụng tên lửa tái chế. Còn từ đây đến năm 2022, Mỹ vẫn sẽ phải mua 18 động cơ tên lửa RD-180 của Nga để đưa hàng lên vũ trụ<ref>{{Chú thích web | url = http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/quan-su/thuong-vien-my-chap-thuan-mua-dong-co-ten-lua-nga-3418306.html | tiêu đề = Thượng viện Mỹ chấp thuận mua động cơ tên lửa Nga - VnExpress | tác giả 1 = | ngày = 11 tháng 6 năm 2016 | ngày truy cập = 23 tháng 12 năm 2017 | nơi xuất bản = [[VnExpress|VnExpress - Tin nhanh Việt Nam]] | ngôn ngữ = }}</ref>

Nga còn thành lập các công ty ở phương Tây để bí mật thu mua, đặt hàng các linh kiện điện tử từ các nhà sản xuất Mỹ rồi đem về đóng gói và xuất chúng sang cho các công ty ở Nga. Các linh kiện này dùng cho [[Bộ Quốc phòng Nga]], [[Tổng cục An ninh Liên bang Nga]] (FSB) và ngay cả các pháp nhân Nga liên quan đến việc thiết kế vũ khí và đầu đạn [[hạt nhân]]. Đặc vụ FBI nói rằng hoạt động này đã hủy hoại đáng kể an ninh quốc gia của Mỹ bằng việc thu mua các linh kiện điện tử tối tân, kỹ thuật cao và đưa lậu chúng đến Nga, từ đó các linh kiện điện tử này giúp nâng cao năng lực của cơ quan tình báo Nga, góp phần hiện đại hóa cả quân đội và chương trình [[vũ khí hạt nhân]] của Nga<ref>[http://nhipsongso.tuoitre.vn/nhip-song-so/linh-kien-dien-tu-xuat-lau-sang-nga-760908.htm Linh kiện điện tử xuất lậu sang Nga - Tuổi Trẻ Online<!-- Bot generated title -->]</ref>. Được biết, linh kiện điện tử mà công ty Nga mỗi năm mua của Mỹ trị giá khoảng 2 tỷ USD.

Khi Nga bị phương Tây áp đặt lệnh trừng phạt do can thiệp vào cuộc khủng hoảng tại Ukraina thì doanh nghiệp quân sự và hàng không vũ trụ của họ phải lập kế hoạch chuyển sang những đối tác mới. Các công ty này đã mua nhiều linh kiện điện tử với tổng trị giá hàng tỷ USD từ Trung Quốc.<ref>[http://infonet.vn/nga-mua-hang-ty-usd-linh-kien-quoc-phong-cua-trung-quoc-post140028.info Nga mua hàng tỷ USD linh kiện quốc phòng của Trung Quốc - Infonet<!-- Bot generated title -->]</ref> Tuy trình độ của Trung Quốc không phải là cao nhất thế giới, nhưng hệ thống sản xuất của nước này rất hoàn chỉnh, khả năng tự cung tự cấp rất mạnh và luôn liên tục phát triển. Hợp tác quy mô lớn với doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc trong lĩnh vực vi điện tử sẽ là bước đầu tiên trong việc hình thành liên minh công nghệ quốc gia BRICS. Với việc Trung Quốc sử dụng hệ thống nghiên cứu sản xuất linh kiện hiện có và kho nhân tài công nghệ, còn Nga phát huy những ưu thế có được trong các dự án nghiên cứu hàng chục năm qua, sự hợp tác công nghệ cao giữa 2 nước có thể phá vỡ được ưu thế của phương Tây trong lĩnh vực linh kiện điện tử. Ngay cả tên lửa đẩy siêu cấp Angara mà Nga đang nghiên cứu cũng có thể đang sử dụng linh kiện nước ngoài, vì vậy một khi phương Tây ngừng cung cấp cho Nga thì Nga có thể chuyển sang mua từ Trung Quốc.<ref name="kienthuc.net.vn">[http://kienthuc.net.vn/vu-khi/nga-mua-linh-kien-quan-su-trung-quoc-vui-mung-khon-xiet-373320.html Nga mua linh kiện quân sự, Trung Quốc vui mừng khôn xiết<!-- Bot generated title -->]</ref>. Tuy Trung Quốc có thể giúp Nga giải quyết nhiều vấn đề nhưng không thể giải quyết toàn bộ vấn đề được. Một là tính năng sản phẩm liệu có thể có thể thay thế hoàn toàn sản phẩm tương tự của phương Tây, 2 là chủng loại liệu có đủ hoàn toàn, 3 là linh kiện mới có thể vẫn cần một thời gian hoạt động với nền tảng của Nga. Tuy nhiên, việc mua linh kiện điện tử từ Trung Quốc có một chút lợi thế, một là cung ứng đảm bảo, hai là giá sẽ tương đối ưu đãi.

Sau khi Liên Xô giải thể rất khó nhìn thấy những thương hiệu công nghiệp dân dụng của Nga, lĩnh vực có thể thấy hàng Nga phổ biến là thương hiệu Vodka và các sản phẩm quân sự.<ref>{{Chú thích web|url=http://danviet.vn/dong-tay-kim-co/vi-sao-noi-nga-khong-the-hoan-thanh-cong-nghiep-hoa-1044235.html|tựa đề=Vì sao nói Nga không thể hoàn thành công nghiệp hóa?}}</ref>

=== Nông nghiệp và lâm nghiệp ===
Tổng diện tích đất canh tác của Nga ước tính là 1.237.294&nbsp;km vuông (477.722 sq mi), lớn thứ tư trên thế giới <ref>"[https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/fields/2097.html Land Use] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140326095031/https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/fields/2097.html |date = ngày 26 tháng 3 năm 2014}}"</ref>. Từ năm 1999 đến năm 2009, nông nghiệp của Nga tăng trưởng đều đặn <ref>[http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_02/IssWWW.exe/Stg/d010/1-03.doc Data] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110501012219/http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_02/IssWWW.exe/Stg/d010/1-03.doc|date=ngày 1 tháng 5 năm 2011}} by [[Rosstat]] {{ru icon}}</ref>, và đất nước chuyển từ một nước phải nhập khẩu ngũ cốc trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn thứ ba thế giới sau [[EU]] và [[Hoa Kỳ]] <ref>[https://archive.today/20120108052630/http://www.rosbankjournal.ru/news/11588 Russia takes the third place in the world by grain exports], rosbankjournal.ru {{ru icon}}</ref>. Sản lượng thịt đã tăng từ 6,813.000 tấn năm 1999 lên 9.331.000 tấn trong năm 2008 và vẫn tiếp tục tăng <ref>[http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_02/IssWWW.exe/Stg/d010/1-04.doc Data] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110501012309/http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_02/IssWWW.exe/Stg/d010/1-04.doc|date=ngày 1 tháng 5 năm 2011}} by [[Rosstat]] {{ru icon}}</ref>. Trong khi các trang trại lớn tập trung chủ yếu vào sản xuất ngũ cốc và các sản phẩm chăn nuôi như sữa hay trứng, các hộ gia đình tư nhân nhỏ đã sản xuất hầu hết lượng khoai tây, rau và trái cây của cả nước <ref>[http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_38/IssWWW.exe/Stg/d01/02-28.htm Main agricultural products by type of owners] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110501011307/http://www.gks.ru/bgd/regl/b09_38/IssWWW.exe/Stg/d01/02-28.htm|date=ngày 1 tháng 5 năm 2011}} [[Rosstat]], 2009 {{ru icon}}</ref>. Nga hiện là nước sản xuất [[lúa mạch]], [[kiều mạch]] và [[yến mạch]] đứng đầu thế giới cũng như là một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu [[lúa mạch đen]], [[hạt hướng dương]] và [[lúa mì]] lớn nhất thế giới.

Trải dài từ biển Baltic đến Thái Bình Dương, Nga là quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới, chiếm 1/5 diện tích rừng của thế giới <ref name="fao.org">{{Chú thích web|url=http://www.fao.org/docrep/013/i1757e/i1757e.pdf|tiêu đề=FAO. 2010. Global Forest Resources Assessment 2010. Main Report. FAO Forestry Working Paper 163, Rome, Italy|định dạng=PDF|ngày= |ngày truy cập=ngày 4 tháng 5 năm 2013}}</ref><ref name="FAO 2010">{{Chú thích web|định dạng=PDF|url=http://www.fao.org/docrep/014/i1757r/i1757r.pdf|script-title=ru:Глобальная оценка лесных ресурсов 2010 года|dịch tiêu đề=Global Forest Resources Assessment 2010|nhà xuất bản=FAO Forestry Working Paper 163, Rome, Italy|ngôn ngữ=ru|ngày=2010}}</ref>. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu năm 2012 bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của [[Liên hợp quốc]] và Chính phủ Liên bang Nga, tiềm năng to lớn này vẫn chưa được khai thác đúng mức.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.fao.org/docrep/016/i3020e/i3020e00.pdf|tiêu đề=The Russian Federation Forest Sector Outlook Study to 2030|nhà xuất bản=FAO. Rome, Italy|định dạng=PDF|ngày=2012|ngày truy cập=ngày 4 tháng 5 năm 2013}}</ref> Nga hiện nay đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về tình trạng phá rừng. Hàng loạt nhà máy gỗ của Trung Quốc mọc lên ở Nga mang tới việc làm và thu nhập nhưng đi kèm là nỗi lo tài nguyên rừng bị khai thác quá đà. Dù khai thác ồ ạt tại Nga, tất cả những dây chuyền sản xuất gỗ thành phẩm đều được thực hiện ở Trung Quốc, nơi đang hạn chế chặt chẽ việc khai thác gỗ nhằm bảo tồn rừng.<ref>{{Chú thích web|url=https://vnexpress.net/the-gioi/nhung-canh-rung-nga-oan-minh-truoc-con-khat-go-cua-trung-quoc-3958494.html|tựa đề=Những cánh rừng Nga oằn mình trước cơn khát gỗ của Trung Quốc}}</ref> Vấn nạn phá rừng đã tồn tại từ nhiều năm nay và ngày càng khó kiểm soát. Từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng bị phá là 40 triệu ha, nhưng chỉ có một nửa diện tích được trồng lại. Rừng bị tàn phá mạnh tại các vùng Viễn Đông, phía Tây Bắc và Siberia. Nạn phá rừng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường và tàn phá các hệ sinh thái, làm tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính... Ngoài ra, diện tích rừng bị suy giảm do các nguyên nhân khác như cháy rừng, phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản cùng với việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, xây dựng nhà ở và giao thông.<ref>{{Chú thích web|url=http://tapchimoitruong.vn/pages/article.aspx?item=Nh%E1%BB%AFng-v%E1%BA%A5n-%C4%91%E1%BB%81-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-c%E1%BB%A7a-Li%C3%AAn-bang-Nga-hi%E1%BB%87n-nay-46049|tựa đề=Những vấn đề môi trường của Liên bang Nga hiện nay}}{{Liên kết hỏng|date=2023-09-16 |bot=InternetArchiveBot }}</ref>

=== Năng lượng ===
{{chính|Năng lượng tại Nga|Năng lượng hạt nhân tại Nga}}
[[Tập tin:BalakovoNPP turb.JPG|nhỏ|trái|300px|Turbin của [[nhà máy điện hạt nhân Balakovo]] của Nga năm 2004.]]
[[Tập tin:RIAN archive 105514 U-70 atom smasher control panel.jpg|nhỏ|280px|Bên trong Viện Vật lý năng lượng tại thành phố Protvino]]
Nga được thừa nhận là một [[siêu cường năng lượng]]. [[Danh sách các quốc gia theo sản lượng khí đốt|Nga là một trong các quốc gia có sản lượng khí đốt hàng đầu thế giới]], [[trữ lượng dầu mỏ]] đứng thứ tám, thứ hai về [[Các vùng sản xuất than chính|trữ lượng than]].

Nga là [[Danh sách quốc gia theo xuất khẩu khí tự nhiên|nhà xuất khẩu khí tự nhiên]] và [[Danh sách quốc gia theo sản lượng khí tự nhiên|nhà sản xuất khí tự nhiên]] hàng đầu thế giới, dù thỉnh thoảng Nga và [[Ả Rập Xê Út]] thay đổi vị trí về tiêu chí. [[Châu Âu]] hiện nhập khẩu đến 1/3 nhu cầu khí đốt từ Nga, mặc dù thời gian qua châu lục này đã cố gắng giảm phụ thuộc vào năng lượng của Nga. [[Hoa Kỳ]] đã tăng nguồn cung cấp [[khí đốt]] cho [[châu Âu]]. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 6% lượng nhập khẩu khí đốt của [[châu Âu]] là tới từ [[Hoa Kỳ]]. Sự phụ thuộc vào nguồn khí đốt của Nga ở [[châu Âu]] vẫn rất lớn. Ở [[Italy]], khí đốt Nga chiếm 37% lượng nhập khẩu. Ở [[Đức]] tỉ lệ này khoảng 28%. Sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu của [[Slovenia]], [[Hy Lạp]] và [[Hungary]] ở mức từ 41-45%. Không có [[khí đốt]] của Nga, họ sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhiên liệu nghiêm trọng sau khoảng 10 ngày. Đặc biệt là [[Cộng hòa Séc]], [[Slovakia]], [[Phần Lan]], [[Litva]], [[Latvia]], [[Estonia]] gần như phụ thuộc 100% vào [[khí đốt]] Nga.<ref>{{Chú thích web|url=http://antg.cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-antg/Tin-gio-mua-dong-bac-tai-chau-Au-481015/|tiêu đề=Sự kiện & Bình luận
Tin "gió mùa đông bắc" tại châu Âu}}</ref> Mặt khác kinh tế Nga cũng lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch và năng lượng, chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga. Ngành dầu khí chiếm đến 46% tổng chi tiêu của chính phủ Nga và đóng góp tới 30% GDP của nước này.<ref>{{Chú thích web|url=https://baodautu.vn/cuoc-chien-gia-dau-saudi-arabia---nga-ke-khoc-nguoi-cuoi-d118933.html|tựa đề=Cuộc chiến giá dầu Saudi Arabia - Nga: "Kẻ khóc, người cười"}}</ref>

Nga là [[Danh sách quốc gia theo sản lượng điện|nước sản xuất điện hàng thứ 4 thế giới]] và [[Danh sách quốc gia theo sản lượng điện từ các nguồn tài nguyên có thể tái tạo|nhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng thứ 5 thế giới]], tiêu chí sau nhờ nước này đã phát triển mạnh việc sản xuất [[thủy điện]]. Những [[nhà máy thủy điện]] lớn đã được xây dựng ở [[vùng châu Âu của Nga]] dọc theo các con sông như [[Sông Volga|Volga]]. Vùng [[châu Á]] của Nga cũng có một số [[nhà máy thủy điện]] lớn, tuy nhiên, tiềm năng [[thủy điện]] vĩ đại của [[Siberia]] và [[Viễn Đông Nga]] phần lớn vẫn chưa được khai thác.

Nga là nước đầu tiên phát triển [[lò phản ứng hạt nhân]] dân sự và xây dựng [[Nhà máy Điện Hạt nhân Obninsk|nhà máy điện hạt nhân đầu tiên]]. Hiện tại, Nga là [[Năng lượng hạt nhân theo quốc gia|nhà sản xuất điện hạt nhân đứng thứ 4]]. [[Rosatom]] quản lý toàn bộ [[Năng lượng hạt nhân tại Nga|các nhà máy điện hạt nhân tại Nga]]. Năng lượng hạt nhân đang phát triển nhanh chóng tại Nga, với mục tiêu tăng tổng thành phần năng lượng hạt nhân từ mức 16.9% hiện nay lên 23% vào năm 2020. Chính phủ Nga có kế hoạch chi 127 tỷ rubles ($5.42 triệu) cho một chương trình liên bang để phát triển việc sản xuất năng lượng hạt nhân thế hệ tiếp theo. Khoảng 1 nghìn tỷ ruble ($42.7 triệu) đã được chi từ ngân sách liên bang cho việc phát triển năng lượng hạt nhân và phát triển công nghiệp trước năm 2015.<ref>RIA Novosti</ref> Nga vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về [[công nghệ hạt nhân]] và là một thành viên của dự án [[lò phản ứng hạt nhân]] quốc tế.

[[Gazprom]], gã khổng lồ khí đốt của Nga đã phải chật vật để tìm công nghệ cho mỏ ngoài khơi Nam Kirinskoye ở [[Viễn Đông]] sau khi các lệnh trừng phạt của [[Mỹ]] cấm bất kỳ công ty Mỹ nào cung cấp thiết bị dưới đáy biển. Việc phát triển thêm các dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng đặc biệt dễ bị tổn thương vì Nga đang thiếu tự chủ nhiều công nghệ, bao gồm cơ sở hóa lỏng khí đốt thương mại quy mô lớn.<ref name=autogenerated4>{{Chú thích web|url=https://www.ft.com/content/d255fa46-ee9e-11e9-a55a-30afa498db1b|tựa đề=US and EU sanctions take toll on Russian oil and gas exploration|họ=Astrasheuskaya|tên=Nastassia|url-status=live}}</ref> Mặc dù các nhà sản xuất dầu trong nước đang theo đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu thông qua các trung tâm nghiên cứu và phát triển trong nước nhưng việc phát triển các công nghệ khả thi về mặt thương mại và sản xuất nội địa hóa đầy đủ các thiết bị cần thiết có thể sẽ mất nhiều năm. [[Bộ năng lượng Nga]] cảnh báo Nga đã tiếp tục lập kỷ lục sản xuất dầu thời hậu Xô Viết nhưng các quan chức lo ngại sẽ sụt giảm tới 40% trong vòng 15 năm tới (kể từ 2019) nếu không có giải pháp công nghệ hiệu quả nào được đưa ra.<ref name=autogenerated4 />

===Giao thông vận tải===
[[Tập tin:MosMetro KomsomolskayaKL img2 asv2018-01.jpg|nhỏ|Bên trong một nhà ga tàu điện ngầm ở Moscow (ga Komsomolskaya)]]
{{chính|Giao thông ở Nga}}

Vận tải đường sắt ở Nga nằm dưới sự kiểm soát độc quyền của công ty Russian Railways do nhà nước quản lý. Tổng [[chiều dài]] các tuyến đường sắt ở Nga là {{Convert|85500|km|0|abbr=on}} <ref name="rzd">{{Chú thích web|url=http://eng.rzd.ru/isvp/public/rzdeng?STRUCTURE_ID=4|title=Russian Railways|publisher=Eng.rzd.ru|archive-url=https://web.archive.org/web/20091004034659/http://eng.rzd.ru/isvp/public/rzdeng?STRUCTURE_ID=4|archive-date=ngày 4 tháng 10 năm 2009|access-date =ngày 2 tháng 1 năm 2010}}</ref> chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Không giống như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, đường ray ở Nga sử dụng khổ rộng {{Track gauge|1520mm}}, ngoại trừ {{Convert|957|km|0|abbr=on}} đường ray trên [[Sakhalin|đảo Sakhalin]] sử dụng khổ hẹp {{Track gauge|1067mm}}. Tuyến đường sắt nổi tiếng nhất ở Nga là [[Đường sắt xuyên Sibir|Tuyến đường sắt xuyên SIberia]] (''Transsib''), trải dài trên 7 múi giờ và nắm giữ kỷ lục với các chuyến tàu dài nhất trên thế giới, như các chuyến Moscow- [[Vladivostok]] ({{Convert|9259|km|0|abbr=on}}), Moscow- [[Bình Nhưỡng]] ({{Convert|10267|km|0|abbr=on}} <ref>[http://www.poezda.net/en/web Lịch trình đường sắt CIS] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090727140551/http://www.poezda.net/en/web |date = ngày 27 tháng 7 năm 2009}}, tuyến số 002, Moscow-Bình Nhưỡng, tháng 8 năm 2009.</ref> và [[Kiev]]-Vladivostok {{Convert|11085|km|0|abbr=on}}).<ref>[http://www.poezda.net/en/web Lịch trình đường sắt CIS] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090727140551/http://www.poezda.net/en/web |date = ngày 27 tháng 7 năm 2009}}, tuyến số 350, Kiev-Vladivostok, tháng 8 năm 2009.</ref>

{{Tính đến|2006}}, Nga có tổng cộng 933.000&nbsp;km đường bộ, trong đó 755.000&nbsp;km được trải nhựa.<ref>{{Chú thích web |url=http://www.gks.ru/bgd/regl/b08_11/IssWWW.exe/Stg/d02/18-09.htm |ngày truy cập=2019-03-29 |tựa đề=Протяженность путей сообщения<!-- Bot generated title --> |archive-date = ngày 14 tháng 10 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20081014012402/http://www.gks.ru/bgd/regl/b08_11/IssWWW.exe/Stg/d02/18-09.htm |url-status=dead }}</ref> Một số tuyến đường trong số này tạo nên hệ thống đường cao tốc liên bang Nga.

Tổng [[chiều dài]] đường thủy nội địa của Nga là 102.000&nbsp;km, chủ yếu là sông hoặc hồ tự nhiên. Ở phần lãnh thổ châu Âu của đất nước, mạng lưới các kênh đào kết nối lưu vực của các con sông lớn. Các cảng biển lớn của Nga bao gồm cảng [[Rostov trên sông Đông|Rostov trên Sông Đông]] ở biển Azov, [[Novorossiysk]] ở Biển Đen, [[Astrakhan]] và [[Makhachkala]] ở biển Caspian, [[Kaliningrad]] và St Petersburg ở biển Baltic, [[Arkhangelsk]] ở Biển Trắng, [[Murmansk]] ở biển Barents, [[Petropavlovsk-Kamchatskiy|Petropavlovsk -Kamchatsky]] và [[Vladivostok]] ở Thái Bình Dương. Năm 2008, Nga sở hữu 1.448 tàu thương mại. Hạm đội tàu phá băng của Nga là hạm đội tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân duy nhất trên thế giới, thúc đẩy việc khai thác kinh tế ở thềm lục địa [[Bắc Cực]] của Nga và phát triển giao thương đường biển qua tuyến biển Bắc giữa châu Âu và Đông Á.

Về tổng [[chiều dài]] đường ống, Nga chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Hiện tại, nhiều dự án đường ống mới đang được thực hiện, bao gồm các đường ống khí đốt tự nhiên [[Dòng chảy phương Bắc|Nord Stream]] và [[Dòng chảy phương Nam|South Stream]] nối đến châu Âu lục địa, và đường ống dẫn dầu Đông Siberia - Thái Bình Dương (ESPO) đến Viễn Đông và Trung Quốc.

Nga có tổng cộng 1.216 sân bay,<ref>{{Chú thích web|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/rankorder/2053rank.html|title=CIA The World Factbook–Rank Order–Airports|publisher=Cia.gov|access-date =ngày 19 tháng 1 năm 2011|archive-date = ngày 30 tháng 5 năm 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20160530055415/https://www.cia.gov/library/Publications/the-world-factbook/rankorder/2053rank.html|url-status=dead}}</ref> bận rộn nhất là các sân bay [[Sân bay quốc tế Sheremetyevo|Sheremetyevo]], [[Sân bay Quốc tế Domodedovo|Domodingovo]] và [[Sân bay quốc tế Vnukovo|Vnukovo]] ở Moscow và [[Sân bay Pulkovo|Pulkovo]] ở St. Petersburg.

Hầu hết các thành phố lớn của Nga có hệ thống giao thông công cộng rất phát triển, với các loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất là xe buýt, [[xe điện bánh hơi]] và tàu điện. Bảy thành phố của Nga, cụ thể là các thành phố [[Tàu điện ngầm Moskva|Moscow]], [[Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg|Saint Petersburg]], Nizhny Novgorod, Novosibirsk, Samara, Yekaterinburg và Kazan có hệ thống tàu điện ngầm. Tổng [[chiều dài]] của các tuyến metro ở Nga là {{Convert|465,4|km|mi}}. [[Tàu điện ngầm Moskva|Moscow Metro]] và [[Tàu điện ngầm Sankt-Peterburg|Saint Petersburg Metro]] là hai hệ thống tàu điện ngầm lâu đời nhất ở Nga, được khánh thành lần lượt vào các năm 1935 và 1955. Đây là hai trong số những hệ thống tàu điện ngầm nhanh nhất và bận rộn nhất trên thế giới, nổi tiếng với trang trí phong phú và thiết kế độc đáo tại các sân ga.

===Du lịch===

{{chính|Du lịch Nga}}

[[Tập tin:Дворцовая площадь. Вид с главного штаба.jpg|nhỏ|[[Cung điện Mùa đông]] tại [[Sankt-Peterburg]], điểm du lịch nổi tiếng tại Nga]]

Ngành [[du lịch]] của Nga đã tăng trưởng nhanh chóng kể từ cuối thời kì Xô viết, đầu tiên là du lịch trong nước và sau đó là du lịch quốc tế, được thúc đẩy bởi di sản văn hóa phong phú và sự đa dạng tự nhiên tuyệt vời của đất nước. Các tuyến du lịch chính ở Nga bao gồm một cuộc hành trình vòng quanh các thành phố cổ ở Golden Ring, du lịch trên các con sông lớn như [[sông Volga]] và những chuyến đi dài trên [[Đường sắt xuyên Sibir|Tuyến đường sắt xuyên Siberia]] nổi tiếng. Trong năm 2013, đã có tổng cộng 28,4 triệu lượt khách du lịch đến thăm Nga; khiến Nga trở thành nước có số lượng khách du lịch tham quan đứng thứ 9 trên thế giới. Số lượng khách du lịch tới từ phương Tây có sự suy giảm kể từ năm 2014 do lệnh trừng phạt kinh tế của Phương Tây đối với Nga <ref>{{Chú thích web|url=http://rbth.com/business/2014/07/03/concern_in_russia_as_foreign_tourist_numbers_slump_37899.html|tiêu đề=Concern in Russia as foreign tourist numbers slump|tên 1=Viktor|họ 1=Kuzmin|ngày tháng=ngày 3 tháng 7 năm 2014|nhà xuất bản=}}</ref>.

Tính đến hết năm 2017, Liên bang Nga đã có 27 [[Danh sách di sản thế giới tại Nga|di sản thế giới]] được [[UNESCO]] công nhận, trong đó có 16 di sản văn hóa và 11 di sản tự nhiên. Ba di sản thế giới đầu tiên tại Nga được công nhận vào năm 1990 là [[Trung tâm lịch sử của Saint-Peterburg và nhóm các di tích liên quan|Trung tâm lịch sử của Saint-Peterburg]], [[Kizhi Pogost]], [[Điện Kremli]] và [[Quảng trường Đỏ]]. Nga có 4 di sản chung với các quốc gia khác là [[Vòng cung trắc đạc Struve]] chung với Belarus, Estonia, Phần Lan, Latvia, Lithuania, Moldova, Na Uy, Thụy Điển, Ukraina, Mũi đất Kursh chung với Lithuania), còn [[Khu bảo tồn thiên nhiên Daursky|Phong cảnh Dauria]] và [[Lưu vực Hồ Uvs|Hồ Uvs]] là hai di sản chung với [[Mông Cổ]]. Địa điểm mới nhất được công nhận là [[Khu bảo tồn thiên nhiên Daursky|Phong cảnh Dauria]] được công nhận vào năm 2017.

Các điểm đến được thăm nhiều nhất ở Nga là [[Moskva]] và [[Saint Petersburg|Sankt Peterburg]], hai thành phố lớn nhất của đất nước. Được công nhận là Thành phố Nhân loại, 2 thành phố này có các bảo tàng nổi tiếng thế giới như [[Bảo tàng Tretyakov]] và [[Bảo tàng Ermitazh]], các nhà hát nổi tiếng như [[Nhà hát Bolshoi]] và [[Nhà hát Mariinsky]], các nhà thờ như [[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily]], [[Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, Moskva|Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ]], [[Nhà thờ chính tòa Thánh Isaac]] và [[Nhà thờ Chúa Cứu thế trên Máu đổ]], các công trình đầy ấn tượng như [[điện Kremlin|điện Kremli]] cùng với [[Pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô]], những quảng trường và những con phố xinh đẹp như [[Quảng trường Đỏ]], [[Quảng trường Cung điện]], [[Phố Tverskaya]], [[Phố Nevsky Prospekt]] và [[Phố Arbat]]. Các cung điện và công viên được tìm thấy trong các dinh thự hoàng gia cũ ở ngoại ô Moskva (Kolomenskoye, Tsaritsyno) và St Petersburg (Peterhof, Strelna, Oranienbaum, Gatchina, Pavlovsk và Tsarskoye Selo). Ở [[Moskva]] vẫn còn tồn tại nhiều công trình kiến trúc của thời kỳ Liên Xô, cùng với đó là các tòa nhà chọc trời hiện đại mới được xây dựng, trong khi St Petersburg, có biệt danh là "[[Venice]] của phương Bắc", tự hào về các công trình kiến trúc cổ điển, những con sông, kênh rạch và cầu.

Các bãi biển ấm áp của [[Biển Đen]] đã hình thành nên một số khu du lịch biển nổi tiếng, chẳng hạn như [[Sochi]], thành phố chủ nhà [[Thế vận hội mùa đông 2014]]. Những ngọn núi ở [[Vùng liên bang Bắc Kavkaz|Bắc Kavkaz]] là nơi có các khu trượt tuyết nổi tiếng như [[Dombay]]. Điểm đến tự nhiên nổi tiếng nhất ở Nga là [[Hồ Baikal]]. Đây là hồ nước lâu đời nhất và sâu nhất trên thế giới, có làn nước trong như pha lê và được bao quanh bởi những ngọn núi. Các điểm du lịch tự nhiên phổ biến khác ở Nga bao gồm [[Kamchatka]] với những ngọn núi lửa và mạch nước phun, [[Karelia]] với các hồ và [[đá granit]], dãy núi Altai phủ tuyết, và các thảo nguyên hoang dã của [[Tuva]].

== Khoa học, kỹ thuật và công nghệ==
{{chính|Viện Hàn lâm Khoa học Nga|Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga|Liên đoàn Hàng không Thống nhất|Rosatom|Rosoboronexport|Danh sách nhà phát minh Nga|Danh sách nhà thám hiểm Nga|Danh sách nhà du hành vũ trụ Nga}}
[[Tập tin:Mir on 12 June 1998edit1.jpg|250px|nhỏ|trái|[[Trạm vũ trụ Hòa Bình]]]]
Từ đầu thế kỷ XVIII [[Những cuộc cải cách của Pyotr I của Nga|những cuộc cải cách của Pyotr Đại đế]] (người sáng lập [[Viện Hàn lâm Khoa học Nga]] và [[Đại học Quốc gia Saint Petersburg|Đại học Quốc gia Sankt Peterburg]]) và những đóng góp của những người từng tốt nghiệp tại đây như [[học giả]] [[Mikhail Vasilyevich Lomonosov|Mikhail Lomonosov]] (người sáng lập [[Đại học Quốc gia Moskva]]) đã giúp nước Nga có được sự phát triển mạnh trong khoa học và phát minh. Trong thế kỷ XIX và XX nước này đã sản sinh ra một lượng lớn các [[:Category:Nhà khoa học Nga|nhà khoa học]] [[Danh sách nhà phát minh Nga|và nhà phát minh]]. [[Nikolai Ivanovich Lobachevsky|Nikolai Lobachevsky]], một ''[[Nicolaus Copernicus|Copernicus]] trong [[hình học]]'', đã phát triển [[hình học phi Euclid]]. [[Dmitri Ivanovich Mendeleev|Dmitri Mendeleev]] phát minh ra [[Bảng tuần hoàn|Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học]], khuôn khổ chính của [[hóa học|hoá học]] hiện đại. [[Gleb Kotelnikov]] phát minh ra [[dù]] [[ba lô]], trong khi [[Evgeniy Chertovsky]] phát minh ra [[quần áo điều áp]]. [[Pavel Yablochkov]] và [[Alexander Lodygin]] là những nhà tiên phong vĩ đại trong [[kĩ thuật điện|kỹ thuật điện]] và là những nhà phát minh của những [[đèn điện]] đầu tiên. [[Alexander Stepanovich Popov|Alexander Popov]] là một trong những [[Phát minh radio|người phát minh radio]], trong khi [[Nikolai Basov]] và [[Alexander Prokhorov]] là hai người đồng phát minh ra tia [[laser]] và [[maser]]. [[Igor Tamm]], [[Andrei Dmitrievich Sakharov|Andrei Sakharov]] và [[Lev Artsimovich]] đã phát triển ý tưởng [[tokamak]] để kiểm soát [[phản ứng tổng hợp hạt nhân]] và tạo ra nguyên mẫu đầu tiên của nó, sau này dẫn tới dự án [[ITER]]. Nhiều nhà khoa học và phát minh nổi tiếng của Nga là [[người di cư]], như [[Igor Sikorsky]] và [[Vladimir Zworykin]], và nhiều nhà khoa học nước ngoài cũng đã làm việc ở Nga một thời gian dài như [[Leonhard Euler|Leonard Euler]] và [[Alfred Nobel]].

Các thành tựu lớn nhất của Nga thuộc lĩnh vực [[công nghệ vũ trụ]] và [[thám hiểm vũ trụ]]. [[Konstantin Eduardovich Tsiolkovsky|Konstantin Tsiolkovsky]] là cha đẻ của lý thuyết hàng không vũ trụ<ref>{{Chú thích web |url=http://www.aiaa.org/index.cfm |ngày truy cập=2005-10-03 |tựa đề=American Institute of Aeronautics and Astronautics - Home Page<!-- Bot generated title --> |archive-date = ngày 3 tháng 10 năm 2005 |archive-url=https://web.archive.org/web/20051003163139/http://www.aiaa.org/index.cfm |url-status=dead }}</ref>. Các tác phẩm của ông đã tạo cảm hứng cho những kỹ sư tên lửa hàng đầu của [[Liên Xô|Liên xô]] như [[Sergey Pavlovich Korolyov|Sergey Korolyov]], [[Valentin Glushko]] và nhiều người khác đóng góp vào sự thành công của [[Chương trình Vũ trụ Liên xô]] ở những giai đoạn đầu của cuộc [[Chạy đua vào không gian]]. năm 1957 [[vệ tinh|vệ tinh nhân tạo]] đầu tiên bay quanh Trái Đất, ''[[Sputnik 1]]'', được phóng lên; năm 1961 ngày [[Ngày Hàng không Vũ trụ|12 tháng 4]] chuyến bay đầu tiên của loài người vào vũ trụ đã được [[Yuri Alekseievich Gagarin|Yuri Gagarin]] thực hiện thành công; và nhiều người Liên xô và Nga khác đã thực hiện [[Biểu thời gian thám hiểm vũ trụ|kỷ lục thám hiểm vũ trụ]]. Từ năm 1999 đến 2009 Nga là nước phóng tên lửa nhiều nhất, 245 tên lửa có tải trọng lên quỹ đạo thành công so với 218 của Mỹ <ref>[<!--http://www.economist.com/daily/chartgallery/displayStory.cfm?story_id=14256807&source=features_box4-->http://www.economist.com/node/14256807?story_id=14256807&source=features_box4 Space industry: Do we have lift-off? | The Economist<!-- Bot generated title -->]</ref> và cũng là nước duy nhất cung cấp các dịch vụ [[du lịch vũ trụ]].{{fact}}

Thủ tướng [[Dmitry Anatolyevich Medvedev|Dmitry Medvedev]] đã lên tiếng cảnh báo rằng Nga đang mất dần danh tiếng và tiền của do các dự án vũ trụ thất bại, sau khi không thể đưa 2 vệ tinh lên quỹ đạo tháng 8/2012. Vụ phóng đã thất bại gây tổn thất lớn cho ngành [[công nghiệp hàng không vũ trụ Nga]]. Một sự cố tương tự năm 2011 đã khiến Nga mất một vệ tinh thông tin trị giá 265 triệu USD. Nga cũng từng thất bại trong vụ phóng tàu thăm dò [[Sao Hỏa]] [[Phobos-Grunt]].<ref>[http://dantri.com.vn/c36/s138-629048/medvedev-canh-bao-nga-dang-thua-trong-cuoc-dua-vu-tru.htm Medvedev cảnh báo Nga đang thua trong cuộc đua vũ trụ<!-- Bot generated title -->]</ref> Ông Medvedev cũng cho rằng: ''"Chẳng [[cường quốc không gian]] nào lại chứng kiến nhiều vụ phóng [[vệ tinh]] và phi thuyền hỏng như Nga"''. Vì thế ông quyết định chấn chỉnh lại ngành công nghiệp vũ trụ của Nga<ref>[http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2012/09/nga-quyet-chan-chinh-cong-nghiep-vu-tru/ Nga quyết chấn chỉnh công nghiệp vũ trụ - VnExpress<!-- Bot generated title -->]</ref> cũng như tiếp tục các chương trình thám hiểm Sao Hỏa khác<ref>{{Chú thích web | url = http://planetsaryupdate.com/www__Daviationweek__Dcom/news__Europe-Joins-Russia-on-Robotic-ExoMars.php | tiêu đề = Europe Joins Russia on Robotic ExoMars | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 30 tháng 4 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = | archive-date = ngày 27 tháng 4 năm 2013 | archive-url = https://archive.today/20130427180323/planetsaryupdate.com/www__Daviationweek__Dcom/news__Europe-Joins-Russia-on-Robotic-ExoMars.php | url-status = bot: unknown }}</ref><ref>[http://www.thespacereview.com/article/1980/1 The Space Review: Red Planet blues<!-- Bot generated title -->]</ref> và đã hoàn thành chương trình [[Mars-500]] để thu thập thêm nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa người lên Sao Hỏa<ref>{{Chú thích web | url = http://rbth.ru/articles/2011/11/14/from_earth_to_mars_and_back_in_520_days_13750.html | tiêu đề = To Mars and back in 520 days Russia Beyond The Headlines | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 8 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = | archive-date = 2012-07-12 | archive-url = https://web.archive.org/web/20120712051839/http://rbth.ru/articles/2011/11/14/from_earth_to_mars_and_back_in_520_days_13750.html | url-status = dead }}</ref> Đây là dự án quốc tế của Nga, EU ([[Liên hiệp châu Âu]]) và [[Trung Quốc]] nhằm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và tâm sinh lý của một toán phi hành gia quốc tế 6 người trên một chuyến bay giả định dài 520 ngày lên [[sao Hỏa]] và đi bộ trên đó.<ref>[http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/tu-mars-one-den-mars-500-2013030610249208.htm Từ Mars One đến Mars 500<!-- Bot generated title -->]</ref>

Sau khi Liên Xô sụp đổ, chính sách của Hoa Kỳ khuyến khích các cơ quan chính phủ và các công ty hàng không vũ trụ mua hàng của Nga và giữ cho các kỹ sư Nga bận rộn nhằm ngăn họ làm việc cho các quốc gia thù địch với lợi ích của Hoa Kỳ.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.washingtonpost.com/national/health-science/us-military-national-security-agencies-vexed-by-dependence-on-russian-rocket-engines/2014/05/30/19822e40-e6c0-11e3-8f90-73e071f3d637_story.html|tựa đề=U.S. military, national security agencies vexed by dependence on Russian rocket engines|url-status=live}}</ref> Nga hiện đang là một trong số các nhà cung cấp động cơ tên lửa vũ trụ cho Hoa Kỳ. Vì lý do an ninh quốc gia, Hoa Kỳ yêu cầu phải có ít nhất hai hệ thống phóng. Không quân Hoa Kỳ và NASA hiện đang dựa chủ yếu vào ba loại tên lửa là [[Delta IV]] và Atlas V được điều hành bởi ULA và [[Falcon 9]] của SpaceX, trong đó riêng tên lửa Atlas V hiện đang sử dụng động cơ được thiết kế và chế tạo từ Nga là [[RD-180]].<ref>[http://nationalinterest.org/blog/the-buzz/why-america-needs-new-upper-stage-rockey-more-russian-rd-180-23982 Why America Needs a New Upper Stage Rocket More Than a Russian RD-180 Replacement | The National Interest Blog<!-- Bot generated title -->]</ref> Bởi vì chi phí hoạt động Atlas V rẻ hơn Delta IV nên Delta IV được dành riêng để sử dụng với các tải trọng và quỹ đạo khó hơn mà Atlas V không thể xử lý được.

Dù đang cố phát triển động cơ riêng nhưng tập đoàn tên lửa vũ trụ của Nga Energomash cho rằng từ khâu thử nghiệm cho đến khi sản xuất thành công là khoảng thời gian rất dài, Hoa Kỳ sẽ cần trên 3 tỷ USD và khoảng thời gian 10 năm để sản xuất thay thế các động cơ Nga. Vì thế họ cho rằng Mỹ vẫn sẽ nhập động cơ tên lửa từ Nga cho dù có bị cấm<ref>{{Chú thích web | url = http://anninhthudo.vn/quan-su/lau-nam-goc-nai-ni-thuong-vien-cho-phep-mua-dong-co-ten-lua-nga/610174.antd | tiêu đề = Lầu Năm Góc "nài nỉ" Thượng viện cho phép mua động cơ tên lửa Nga | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 15 tháng 8 năm 2015 | nơi xuất bản = Báo An ninh Thủ đô | ngôn ngữ = }}</ref> và mẫu nâng cấp của Antares sẽ được trang bị các động cơ này<ref>{{Chú thích web | url = http://aviationweek.com/space/antares-upgrade-will-use-rd-181s-direct-buy-energomash | tiêu đề = Antares Upgrade Will Use RD-181s In Direct Buy From Energomash | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 24 tháng 9 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>.

[[Tập tin:Soyuz tm-31 transported to launch pad.jpg|nhỏ|phải|Soyuz TMA-2 launch.jpg|[[Soyuz TMA-2]] đang được chuyển tới bệ phóng, mang theo phi đoàn thường trực đầu tiên lên [[Trạm vũ trụ Quốc tế|Trạm Vũ trụ Quốc tế]].]]
Các công nghệ khác, nơi người Nga có lịch sử phát triển, gồm [[công nghệ hạt nhân]], sản xuất [[máy bay]] và [[công nghệ quốc phòng]]. Việc xây dựng [[nhà máy điện nguyên tử|nhà máy điện hạt nhân]] đầu tiên cùng [[Công nghệ lò phản ứng hạt nhân|các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên]] cho [[tàu ngầm]] và [[Tàu biển dùng năng lượng hạt nhân|tàu hoạt động trên mặt nước]] nằm dưới sự chỉ đạo của [[Igor Vasilyevich Kurchatov|Igor Kurchatov]]. Một số nhà kỹ thuật hàng không nổi bật của Liên xô, có cảm hứng từ các tác phẩm lý thuyết của [[Nikolai Zhukovsky]], đã giám sát việc chế tạo hàng chục model máy bay quân sự và dân sự và đã thành lập một số ''KBs'' (''Phòng thiết kế'') hiện là thành phần chủ yếu của [[Liên đoàn Hàng không Hợp nhất]]. Các máy bay nổi tiếng của Nga gồm máy bay chở khách [[tốc độ siêu thanh|siêu thanh]] đầu tiên [[Tupolev Tu-144]] của [[Aleksey Andreyevich Tupolev|Alexei Tupolev]], loạt [[máy bay chiến đấu]] [[Mikoyan|MiG]] của [[Artem Ivanovich Mikoyan|Artem Mikoyan]] và [[Mikhail Iosifovich Gurevich|Mikhail Gurevich]], và loạt máy bay [[Sukhoi|Su]] của [[Pavel Osipovich Sukhoi|Pavel Sukhoi]] cùng những người kế tục ông. Những xe tăng chiến trường nổi tiếng của Nga gồm [[Xe tăng T-34|T-34]], thiết kế xe tăng theo kênh Discovery là loại tốt nhất của [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]],<ref>{{Chú thích web |url=http://military.discovery.com/videos/top-ten-tanks-t-34.html |ngày truy cập=2012-05-03 |tựa đề=Discovery Top Ten Tanks: T-34 |archive-date=2012-05-01 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120501164936/http://military.discovery.com/videos/top-ten-tanks-t-34.html |url-status=dead }}</ref> và các xe tăng khác thuộc loạt T. Súng [[AK-47]] và [[AK-74]] của [[Mikhail Timofeyevich Kalashnikov|Mikhail Kalashnikov]] là loại [[súng tấn công]] được sử dụng rộng rãi nhất tên thế giới - tới mức các khẩu súng thuộc kiểu AK đã được chế tạo nhiều hơn tất cả các loại súng tấn công khác cộng lại.<ref name="poyer">Poyer, Joe. ''The AK-47 and AK-74 Kalashnikov Rifles and Their Variations''. North Cape Publications. 2004.</ref><ref name="weaponomics">{{Chú thích web | tiêu đề = Weaponomics: The Economics of Small Arms | url = http://www.csae.ox.ac.uk/workingpapers/pdfs/2006-13text.pdf }}</ref>
[[Tập tin:Sukhoi T-50 Maksimov.jpg|nhỏ|250px|trái|[[Sukhoi PAK FA]] - Máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5.]]

Dù có những thành tựu công nghệ, từ thời [[trì trệ Brezhnev]], Nga đã tụt hậu so với [[phương Tây]] trong một số ngành kỹ thuật, đặc biệt là trong [[tiết kiệm năng lượng]] và sản xuất [[hàng dân dụng|hàng tiêu dùng]]. Cuộc khủng hoảng kinh tế hồi những năm 1990 đã khiến khoản hỗ trợ cho khoa học của nhà nước sụt giảm mạnh. Nhiều nhà khoa học và những người có trình độ của Nga đã đi sang [[châu Âu]] hay [[Hoa Kỳ]]; cuộc di cư này được gọi là một cuộc [[chảy máu chất xám]]. Những năm 2000, với làn sóng bùng nổ kinh tế, tình hình khoa học và công nghệ ở Nga đã được cải thiện, và chính phủ đã tung ra một chiến dịch với mục tiêu [[hiện đại hoá]] và [[cải tiến]]. [[Tổng thống Nga]] [[Dmitry Anatolyevich Medvedev|Dmitry Medvedev]] đã đưa ra 5 ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghệ của đất nước: [[sử dụng năng lượng hiệu quả|hiệu quả năng lượng]], [[công nghệ thông tin|IT]] (gồm cả các sản phẩm thông thường và các sản phẩm kết hợp với [[công nghệ vũ trụ]]), [[năng lượng hạt nhân]] và [[dược]].<ref>http://en.rian.ru/russia/20091011/156428675.html [[RIA Novosti]]: Medvedev outlines priorities for Russian economy's modernization</ref> Mặc dù là nhà xuất khẩu hàng [[công nghiệp nặng]] hàng đầu thế giới và đang đạt được những tiến bộ về phần mềm, nhưng các sản phẩm [[hàng tiêu dùng]] của Nga lại thiếu tính cạnh tranh trên trường quốc tế do đơn điệu về mẫu mã. Cải thiện về năng suất sẽ chủ yếu xuất phát từ công nghệ mới và đầu tư vốn hiệu quả, hai điều mà Nga đang thiếu.<ref name="tuanvietnam.vietnamnet.vn">{{Chú thích web |url=http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/ng%C3%A0y |ngày truy cập=2022-01-03 |tựa đề=13 tháng 1 năm 2012-su-noi-len-cua-cac-timbis |archive-date = ngày 3 tháng 9 năm 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130903025548/http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/ng%C3%A0y |url-status=dead }}</ref>

Một số thành tựu mới đã xuất hiện, với việc nước Nga đã hoàn thành [[GLONASS]], một trong 4 [[hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu]] cùng với [[Hệ thống định vị toàn cầu|GPS]] của [[Hoa Kỳ|Mỹ]], [[Hệ thống định vị Bắc Đẩu]] của [[Trung Quốc]] và [[Hệ thống định vị Galileo]] của [[châu Âu]]. Trong giai đoạn 2003-2014, 75-80% linh kiện điện tử dùng cho vệ tinh Glonass-M phải mua từ các nước phương Tây.<ref>{{Chú thích web|url=https://kienthuc.net.vn/vu-khi/nga-mua-linh-kien-quan-su-trung-quoc-vui-mung-khon-xiet-373320.html|tựa đề=Nga mua linh kiện quân sự, Trung Quốc vui mừng khôn xiết}}</ref> Chính phủ Nga đã phải tính đến khả năng dừng chế tạo vệ tinh GLONASS-K do không có các linh kiện đồng bộ từ nước ngoài sau khi phương Tây cấm xuất khẩu linh kiện cho Nga<ref>{{Chú thích web|url=https://baodatviet.vn/khoa-hoc/cong-nghe/chuyen-gi-dang-xay-ra-voi-glonass-nga-3387592/|tựa đề=Chuyện gì đang xảy ra với GLONASS Nga?}}{{Liên kết hỏng|date = ngày 22 tháng 1 năm 2023 |bot=InternetArchiveBot }}</ref> Năm 2016, Nga đã lập kế hoạch đến năm 2024 sẽ tự sản xuất toàn bộ các linh kiện vệ tinh để tránh việc phải phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu. Năm 2019, Nga bắt đầu sản xuất các vệ tinh Glonass-K2, được phát triển bởi [[ISS Reshetnev]] (Hệ thống vệ tinh thông tin Reshetnev). Trong khi GLONASS-K có tới 90% thiết bị điện tử nhập từ nước ngoài thì GLONASS-K2 mới sẽ sử dụng toàn bộ các thành phần làm tại Nga, đồng thời Glonass-K2 sẽ có tuổi thọ hoạt động cao hơn 3 năm. Theo kế hoạch, 20 vệ tinh thế hệ mới "Glonass-K2" sẽ được phóng trong giai đoạn 2020-2031<ref>{{chú thích web | url = http://izvestia.ru/news/586785 | tiêu đề = Из спутников «Глонасс» уберут импортные комплектующие | author = +74959376170 | ngày = | ngày truy cập = 1 tháng 1 năm 2024 | nơi xuất bản = Известия | ngôn ngữ = }}</ref>

Nga là nước duy nhất xây dựng [[Nhà máy điện hạt nhân nổi của Nga|nhà máy điện hạt nhân di động]] và hiện đang là nước đi đầu trong nghiên cứu [[nhà máy điện hạt nhân thế hệ thứ 5]] {{fact}} (loại này có hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu hạt nhân vượt trội so với các nhà máy thế hệ trước, giúp việc sản xuất điện không tạo ra hoặc chỉ tạo ra rất ít [[chất thải phóng xạ]]){{fact}}. Nga cũng cho ra đời các thiết kế quân sự mới như [[máy bay tàng hình]] [[Su-57]], xe tăng [[T-14 Armata]]...

Do sự phân công sản xuất từ thời Liên Xô nên sau khi Liên Xô tan rã, một số nhà máy công nghiệp chủ chốt lại thuộc về nước khác chứ không thuộc về Nga, do vậy Nga bị thiếu khả năng sản xuất trong một số lĩnh vực (ví dụ như các nhà máy đóng tàu lớn thời Liên Xô hiện nay thuộc về Ucraina, nên Nga phải mua động cơ tàu biển từ nước này){{fact}}. Trung Quốc cũng bắt đầu bán cho Nga các sản phẩm phục vụ mục đích quân sự. Tốc độ nhập khẩu tăng trưởng nhanh khi Trung Quốc bán cho Nga không chỉ các động cơ diesel, mà cả những thiết bị dành cho các tàu hỗ trợ quân sự. Đến năm 2017, doanh thu tiếp tục tăng và đó chỉ là sự khởi đầu vì trong tương lai Nga sẽ mua các thiết bị công nghệ từ Trung Quốc nhiều hơn nữa. Nga không thích ý tưởng mua sản phẩm của Trung Quốc mà muốn sản phẩm phương Tây, nhưng ngay khi phương Tây trừng phạt Nga, họ ngay lập tức phải quay sang mua hàng từ Trung Quốc.<ref name="inosmi.ru">{{Chú thích web|url=http://inosmi.ru/military/20180111/241160716.html|tiêu đề=Внедрение китайского вооружения и оборудования в российскую военную технику – уже не новость. Масштабы поражают воображение}}</ref>

Trong lĩnh vực nghiên cứu các nguyên tố siêu nặng, Nga vẫn dẫn đầu thế giới khi lần đầu tiên thực hiện tổng hợp thành công 6 nguyên tố nặng nhất với số nguyên tử từ 113 đến 118. Đó là thành tựu 10 năm nghiên cứu (2000-2010) của các chuyên gia thuộc phòng thí nghiệm vật lý Flerov tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân ở Dubna gần Moscow. Hai nguyên tố trong số đó đã được Hiệp hội Hóa học cơ bản và hóa học ứng dụng Quốc tế (IUPAC) chính thức công nhận với hai cái tên Flerova (114) và Livermore (116).

Năm 2006, các nhà khoa học Nga đã tạo ra sự phát xạ ánh sáng mạnh nhất trên thế giới dựa trên công nghệ PEARL (Petawatt Parametric Laser) được tạo ra trong [[Viện vật lý ứng dụng Nizhny Novgorod]] thuộc [[Viện Hàn lâm khoa học Nga]], dựa trên kỹ thuật khuếch đại tham số ánh sáng trong các tinh thể quang học phi tuyến. Công nghệ này có thể tạo ra xung động điện mạnh đến 0,56 petawatt, gấp hàng trăm lần công suất của tất cả các nhà máy điện trên thế giới cộng lại (1 petawatt = 1 triệu gigawatt). Các nhà khoa học Nga cũng tạo được từ trường nhân tạo mạnh chưa từng có, đạt đến 28 megagausses, gấp hàng trăm triệu lần so với từ lực của từ trường Trái Đất

Năm 2015, một nhà khoa học Nga là [[Vladimir Leonov]] tuyên bố đã thử nghiệm thành công một mẫu thử nghiệm [[động cơ lượng tử]] có hiệu suất mạnh gấp 5.000 lần động cơ tên lửa thông thường, sẽ tạo ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong thế kỷ XXI, tương tự cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong thế kỷ XX. Động cơ lượng tử có thể đưa khí tài bay chuyển động với tốc độ 1000&nbsp;km/giây, trong khi tốc độ tên lửa thông thường chỉ đạt tới mức tối đa 18&nbsp;km/giây, nghĩa là tàu vũ trụ có thể bay tới [[sao Hỏa]] trong vòng 42 giờ, và tới [[Mặt trăng]] chỉ mất 3,6 giờ. Năng lượng cung cấp cho động cơ đến từ phản ứng nhiệt hạch lạnh (CNF): một kg nickel cho năng lượng tương đương một triệu kg xăng. Dùng động cơ này, máy bay sẽ chỉ cần nạp năng lượng một lần để bay trong vài năm. Thành tựu kỹ thuật này là kết quả vận dụng [[Lý thuyết siêu liên kết]] do các nhà khoa học Nga xây dựng nên.<ref>{{Chú thích web | url = http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/ky-thuat-moi/nha-khoa-hoc-nga-thu-nghiem-dong-co-cho-toc-do-1-000-km-giay-3325817.html | tiêu đề = Nhà khoa học Nga thử nghiệm động cơ cho tốc độ 1.000 km/giây - VnExpress | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 9 tháng 8 năm 2016 | nơi xuất bản = [[VnExpress|VnExpress - Tin nhanh Việt Nam]] | ngôn ngữ = }}</ref>.

Ngày 11-8 năm 2020, Tổng thống Vladimir Putin đã phê duyệt vaccine [[COVID-19]] đầu tiên trên thế giới do Trung tâm Nghiên cứu quốc gia về dịch tễ và vi sinh vật học Gamaleya của Nga phát triển.<ref>[https://hatinh.gov.vn/tong-thong-nga-putin-cong-bo-vaccine-covid-19-dau-tien-cua-the-gioi Tổng thống Nga Putin công bố vaccine COVID-19 đầu tiên của thế giới | Cổng TTĐT tỉnh Hà Tĩnh<!-- Bot generated title -->]</ref>

== Nhân khẩu ==
{{chính|Nhân khẩu Nga}}
<div style="font-size: 90%">
{| class="wikitable" style="border:1px black; float:left; margin-left:1em;"
! style="background:#F99;" colspan="2"|Thành phần sắc tộc (2002)<ref>{{Chú thích web|url=http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|tiêu đề=Russian Census of 2002|work=4.1. National composition of population|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|ngày truy cập=ngày 16 tháng 1 năm 2008|archive-date = ngày 19 tháng 7 năm 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110719233704/http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|url-status=dead}}</ref>
|-
|[[Người Nga]]||79,8%
|-
|[[Người Tatar]]||3,8%
|-
|[[Người Ukraina]]||2,0%
|-
|[[Người Bashkir]]||1,2%
|-
|[[Người Chuvash]]||1,1%
|-
|[[Người Chechnya]]||0,9%
|-
|[[Người Armenia]]||0,8%
|-
|Khác/không xác định||10,4%
|}
</div>

[[Tập tin:Population of Russia.PNG|nhỏ|phải|Dân số (đơn vị triệu người) 1950 – 1991 của [[Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga|Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga]] trong [[Liên Xô|Liên xô]], 1991 – tháng 1 năm 2009 của Liên bang Nga.<ref name="gks">{{Chú thích web|tiêu đề=Demographics|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/bgd/free/b09_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm|ngày truy cập=ngày 21 tháng 2 năm 2009|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090222105741/http://www.gks.ru/bgd/free/b09_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm|ngày lưu trữ=2009-02-22|url-status=live}}</ref>]]
Liên bang Nga là một [[xã hội đa sắc tộc]] đa dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=ngày 1 tháng 6 năm 2007: A great number of children in Russia remain highly vulnerable|nhà xuất bản=United Nations Children's Fund|url=<!--http://www.unicef.org/russia/media_6762.html-->http://www.unicef.org/ceecis/media_6785.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 3 tháng 12 năm 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20111203175316/http://www.unicef.org/ceecis/media_6785.html|url-status=dead}}</ref> Dù dân số Nga khá lớn, mật độ dân số thấp bởi diện tích vĩ đại của nước này.<ref>Xem ''[[Danh sách quốc gia theo mật độ dân số]]''</ref> Dân số tập trung đông nhất tại [[Nga thuộc châu Âu|vùng châu Âu của Nga]], gần [[dãy núi Ural|dãy Ural]], và ở phía tây nam [[Siberia]]. 73% dân số sống tại các khu vực đô thị.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Resident population|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/free_doc/2007/b07_12/05-01.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070527010948/http://www.gks.ru/free_doc/2007/b07_12/05-01.htm|ngày lưu trữ=2007-05-27|url-status=live}}</ref> Theo những ước tính sơ bộ, dân số sống thường xuyên tại Liên bang Nga ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2009 là 141,903,979 người. Năm 2008, dân số giảm 121,400 người, hay -0.085% (năm 2007 – 212,000 người, hay 0.15% và năm 2006 – 532,600 người, hay 0.37%). Trong năm 2008 nhập cư tiếp tục gia tăng ở mức độ 2.7% với 281,615 người tới Nga, trong số đó 95% tới từ các quốc gia thuộc [[Cộng đồng các Quốc gia Độc lập|CIS]], đại đa số là người Nga hay [[tiếng Nga|người nói tiếng Nga]].<ref name="gks"/><ref name=demo>{{Chú thích web|ngày truy cập=ngày 5 tháng 3 năm 2008|tiêu đề=Demography|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|url=http://www.gks.ru/bgd/free/b08_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20080225172120/http://www.gks.ru/bgd/free/b08_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm|ngày lưu trữ=2008-02-25|url-status=live}}</ref> Số lượng người Nga di cư đã giảm 16% xuống còn 39,508 người, trong số đó 66% tới các quốc gia thuộc CIS. Ước tính có 10 triệu người nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia [[Các nước cộng hòa của Liên bang Xô viết|Xô viết cũ]] ở Nga.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Russia cracking down on illegal migrants|nhà xuất bản=International Herald Tribune|ngày=ngày 15 tháng 1 năm 2007|url=<!--http://www.iht.com/articles/2007/01/15/news/migrate.php-->http://www.nytimes.com/2007/01/15/world/europe/15iht-migrate.4211072.html|ngày truy cập=|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20080915210918/http://www.iht.com/articles/2007/01/15/news/migrate.php|ngày lưu trữ=2008-09-15|url hỏng=no}}</ref> Khoảng 116 triệu người sắc tộc Nga sống ở Nga<ref>[http://demoscope.ru/weekly/ssp/rus_nac_02.php Ethnic groups in Russia], 2002 census, ''Demoscope Weekly''. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009</ref> và khoảng 20 triệu người nữa sống tại các nước cộng hoà cũ của Liên xô, chủ yếu tại [[Ukraina]] và [[Kazakhstan]].<ref>[http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/4420922.stm Russians left behind in Central Asia], BBC News, ngày 23 tháng 11 năm 2005.</ref>

Số người nói tiếng Nga đông nhất năm 1991 ở mức 148,689,000 triệu người, nhưng bắt đầu sụt giảm mạnh từ đầu những năm 90.<ref>{{Chú thích web|url=http://countrystudies.us/russia/29.htm|nhà xuất bản=Library of Congress|tiêu đề=Demographics|ngày truy cập=ngày 16 tháng 1 năm 2008}}</ref> Sự sụt giảm đã chậm lại tới mức gần ồn định trong những năm gần đây vì [[Tử suất|tỷ lệ tử]] giảm, [[Sinh suất|tỉ lệ sinh]] tăng và tăng [[nhập cư]]. Số người chết trong năm 2008 là 363,500 lớn hơn số sinh. Nó đã giảm từ 477,700 năm 2007, và 687,100 năm 2006.<ref name="gks"/><ref name=demo/> Theo dữ liệu được Sở Thống kê Nhà nước Liên bang Nga xuất bản, tỷ lệ tử của Nga đã giảm 4% trong năm 2007, so với năm 2006, ở mức khoảng 2 triệu người chết, trong khi tỉ lệ sinh tăng 8.3% hàng năm lên ước tính 1.6 triệu ca sinh.<ref name=ri>{{Chú thích web|url=http://en.rian.ru/russia/20080221/99803097.html|tiêu đề=Russia's population down 0.17% in 2007 to 142 mln|nhà xuất bản=RIA Novosti|ngày truy cập=ngày 11 tháng 3 năm 2008}}</ref> Các nguyên nhân chủ yếu khiến dân số Nga giảm sút là tỷ lệ tử cao và tỉ lệ sinh thấp. Tuy tỉ lệ sinh của Nga ngang bằng với các quốc gia châu Âu (13.3 ca sinh trên 1000 dân năm 2014<ref name="gks"/> so với mức trung bình của [[Liên minh châu Âu]] 10.1 trên 1000) <ref name="EU crude rates">{{chú thích web|title=Demographic balance and crude rates at national level|publisher=Eurostat|url=http://ec.europa.eu/eurostat/web/population-demography-migration-projections/population-data/database?p_p_id=NavTreeportletprod_WAR_NavTreeportletprod_INSTANCE_2pAWwssjV8xq&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-2&p_p_col_pos=1&p_p_col_count=2|access-date =1 June 2016}}</ref> dân số của họ lại giảm với tỷ lệ lớn hơn bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác bởi tỷ lệ tử cao hơn nhiều (năm 2014, tỷ lệ tử của Nga là 13.1 trên 1000 dân<ref name="gks"/> so sánh với mức trung bình của Liên minh châu Âu là 9.7 trên 1000) <ref name="EU crude rates" />. Chính phủ Nga đã và đang thực hiện một số chính sách để tăng tỉ lệ sinh và thu hút người nhập cư. Các khoản trợ cấp hàng tháng của chính phủ dành cho các bậc cha mẹ có con nhỏ đã tăng gấp đôi lên 55 USD và khoản trợ cấp một lần là 9.200 USD đã được cung cấp cho những phụ nữ có con thứ hai kể từ năm 2007 <ref>{{chú thích web|title=Country Profile: Russia|publisher=[[Library of Congress]]—Federal Research Division|date=October 2006|url=http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/profiles/Russia.pdf|access-date =27 December 2007}}</ref>. Tháng 8 năm 2012 đã đánh dấu dân số Nga lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng dương kể từ thập niên 90. Tổng thống Putin tuyên bố dân số Nga có thể đạt 146 triệu vào năm 2025, chủ yếu là nhờ kết quả của việc nhập cư <ref>{{chú thích web|url=http://sputniknews.com/society/20120820/175324629.html|title=Immigration Drives Russian Population Increase|date=ngày 20 tháng 8 năm 2012|website=ria.ru}}</ref>.

Khi ông Putin nhậm chức, dân số Nga đã bị thu hẹp gần 1 triệu người mỗi năm. Moscow luôn coi đây là một "mối nguy hiểm cho chính sự tồn tại của Nga", một điều dường như khó để đảo ngược. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh tăng lên khi điều kiện kinh tế Nga được cải thiện. Năm 2011, Tổng thống Putin tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng nhân khẩu học đã bị đánh bại. Từ năm 2013 - 2015, dân số Nga có dấu hiệu tăng lần đầu tiên trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, dân số Nga lại một lần nữa giảm và với tốc độ nhanh hơn vào năm 2016. Số ca tử vong vượt qua số ca sinh trong 9 tháng đầu năm 2019 ở mức hơn 250.000 người. Theo cơ quan thống kê nhà nước Rosstat, đây là mức giảm tồi tệ nhất trong 11 năm qua.<ref name="kinhtedothi.vn"/>

Cơ quan thống kê chính thức của Nga là Rosstat công bố năm 2013 đã có 186.382 người Nga rời khỏi đất nước vào năm 2013, tăng đáng kể so với chỉ 122.751 người vào năm 2012. Con số này cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể so với 36.774 người trong năm 2011 và 33.578 người vào năm 2010.<ref name="thediplomat.com">[http://thediplomat.com/2014/07/russian-emigration-spikes-in-2013-2014/ Russian Emigration Spikes in 2013-2014 | The Diplomat<!-- Bot generated title -->]</ref> Một số chuyên gia nghi ngờ tính xác thực của số liệu Rosstat, Cáo buộc rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều. Sự gia tăng số người di cư có thể là do sự cô lập chính trị quốc tế đang gia tăng đối với nước Nga dưới thời Vladimir Putin. Trong số những người rời khỏi nước Nga gần đây có nhiều nhân vật nổi tiếng như [[Pavel Durov]], người sáng lập mạng xã hội [[VKontakte]] của Nga, chuyên gia kinh tế [[Sergei Guriyev]] và nhà vô địch cờ vua thế giới [[Garry Kasparov]].

=== Ngôn ngữ ===
{{chính|Tiếng Nga|Ngôn ngữ của Nga}}
[[Tập tin:Russian language status and proficiency in the World.svg|nhỏ|Các quốc gia có sử dụng [[tiếng Nga]].]]
160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.<ref name=britannica/> Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là [[tiếng Tatar]] với 5.3 triệu và [[tiếng Ukraina]] với 1.8 triệu.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|tiêu đề=Russian Census of 2002|work=4.3. Population by nationalities and knowledge of Russian; 4.4. Spreading of knowledge of languages (except Russian)|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|ngày truy cập=ngày 16 tháng 1 năm 2008|archive-date = ngày 19 tháng 7 năm 2011 |archive-url=https://web.archive.org/web/20110719233704/http://www.perepis2002.ru/index.html?id=87|url-status=dead}}</ref> Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho [[nước cộng hòa thuộc Nga|các nước cộng hoà]] riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 68, §2)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-04.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước Nga. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên lục địa Âu Á và cũng là [[Ngữ tộc Slav|ngôn ngữ Slavơ]] được sử dụng nhiều nhất.<ref name=toronto>{{Chú thích web|tiêu đề=Russian|nhà xuất bản=University of Toronto|url=http://learn.utoronto.ca/Page625.aspx|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20070106002617/http://learn.utoronto.ca/Page625.aspx|ngày lưu trữ=2007-01-06|url-status=dead}}</ref> Tiếng Nga thuộc [[ngữ hệ Ấn-Âu|ngữ hệ Ấn Âu]] và là một trong những thành viên còn tồn tại của [[Nhóm ngôn ngữ Slav Đông|các ngôn ngữ Đông Slavơ]]; các ngôn ngữ khác gồm [[tiếng Belarus]] và [[tiếng Ukraina]] (và có lẽ cả [[tiếng Rusyn]]). Những ví dụ văn bản sử dụng [[chữ Đông Slavơ Cổ]] (''Nga Cổ'') được chứng minh có từ thế kỷ thứ X trở về sau.<ref>{{Chú thích web|họ 1=Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007|tiêu đề=Russian language|url=http://encarta.msn.com/encyclopedia_761572449/Russian_Language.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 16 tháng 12 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071216235358/http://encarta.msn.com/encyclopedia_761572449/Russian_Language.html|url-status=dead}}</ref>

Theo người Nga thì hơn một phần tư tác phẩm khoa học của thế giới được xuất bản bằng tiếng Nga. Tiếng Nga cũng được sử dụng làm công cụ mã hoá và lưu trữ văn minh thế giới—60–70% của mọi thông tin trên thế giới được xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Nga.<ref name=lomonosov>{{Chú thích web|tiêu đề=Russian language course|nhà xuất bản=Russian Language Centre, Moscow State University|url=<!--http://www.rlcentre.com/russian-language-course.shtml-->http://www.mgu-russian.com/programms/russian-language-course/en|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 30 tháng 5 năm 2012 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120530102447/http://www.mgu-russian.com/programms/russian-language-course/en}}</ref> Tiếng Nga cũng là một trong sáu [[liên Hiệp Quốc#Các ngôn ngữ|ngôn ngữ chính thức]] của [[Liên Hợp Quốc|Liên hiệp quốc]].

=== Giáo dục ===
{{chính|Giáo dục tại Nga}}

Nga có một hệ thống [[giáo dục miễn phí]] đảm bảo cho mọi công dân theo [[Hiến pháp Nga|hiến pháp]],<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 43 §1)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> và có tỷ lệ [[biết chữ]] 99.7% vào năm 2015. Đầu vào [[thạc sĩ|cao học]] có tính cạnh tranh rất cao.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Smolentseva, A|tiêu đề=Bridging the Gap Between Higher and Secondary Education in Russia|url=http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/News19/text13.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 23 tháng 11 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071123162906/http://www.bc.edu/bc_org/avp/soe/cihe/newsletter/News19/text13.html|url-status=dead}}</ref> Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Russia Country Guide|nhà xuất bản=EUbusiness.com|url=http://www.eubusiness.com/Russia/russia-country-guide/|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref><ref>{{Chú thích web|nhà xuất bản=U.S. Department of State|tiêu đề= Background Note: Russia|url=http://www.state.gov/r/pa/ei/bgn/3183.htm|ngày truy cập=ngày 2 tháng 1 năm 2008}}</ref> Tuy nhiên nạn tảo hôn vẫn khá phổ biến ở các làng mạc nông thôn, và 45% trẻ em Nga đi học muộn hơn độ tuổi quy định<ref name="toquoc.vn">{{Chú thích web |url=http://www.toquoc.vn/Sites/vi-vn/details/4/kinh-te-the-gioi/120369/doan-tau-kinh-te-nga-xa-dan-duong-ray-tang-truong-.aspx |ngày truy cập=2014-03-03 |tựa đề=Đoàn tàu kinh tế Nga xa dần đường ray tăng trưởng<!-- Bot generated title --> |archive-date=2014-03-03 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140303163513/http://www.toquoc.vn/Sites/vi-vn/details/4/kinh-te-the-gioi/120369/doan-tau-kinh-te-nga-xa-dan-duong-ray-tang-truong-.aspx |url-status=dead }}</ref>

Trước năm 1990 quá trình học tập ở [[Liên Xô|Liên xô]] dài 10 năm. Nhưng vào cuối năm 1990, thời gian học 11 năm đã được chính thức áp dụng. Giáo dục tại các [[trường cấp hai]] của nhà nước là miễn phí; giáo dục ''đầu'' cấp ba (mức [[đại học]]) cũng là miễn phí với việc dành trước: một phần lớn sinh viên được tuyển được Nhà nước bao cấp hoàn toàn (nhiều định chế nhà nước bắt đầu mở các khoá thương mại từ những năm gần đây<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Higher Education Institutions|url=http://www.gks.ru/free_doc/2007/b07_12/08-10.htm|nhà xuất bản=Federal State Statistics Service|ngày truy cập=ngày 1 tháng 1 năm 2008|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20080229005920/http://www.gks.ru/free_doc/2007/b07_12/08-10.htm|ngày lưu trữ=2008-02-29|url-status=live}}</ref>). Năm 2004 chi tiêu quốc gia dành cho giáo dục chiếm 3,6% [[Tổng sản phẩm nội địa|GDP]], hay 13% tổng [[Ngân sách chính phủ theo quốc gia|ngân sách nhà nước]]<ref>[http://unesdoc.unesco.org/images/0015/001547/154743e.pdf Education for all by 2015. UNESCO, Oxford University Press]</ref> trong khi ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]] là 7,2% GDP và Nga thua cả Việt Nam (8.3% GDP)<ref>[http://doantn.hnue.edu.vn/front/index.asp?menuid=617&parent_menuid=617&fuseaction=3&articleid=5151]{{Liên kết hỏng|date=2023-12-26|bot=InternetArchiveBot}}</ref>. Chính phủ bố trí các khoản tiền để trả học phí theo một hạn mức được lập sẵn, hay số lượng sinh viên cho mỗi trường của nhà nước. Điều này được coi là cơ bản bởi nó cung cấp cơ hội tiếp cận cao học cho các sinh viên có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người có tiền trả. Ngoài ra, các sinh viên được trả một khoản [[học bổng]] nhỏ và được cung cấp nơi ở miễn phí. Ngoài các cơ sở giáo dục cao học của nhà nước, nhiều cơ sở tư nhân cũng đã xuất hiện và cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực [[công nghệ cao]], [[công nghệ đang xuất hiện|công nghệ mới]] và kinh tế.<ref name=education2>{{Chú thích web|tiêu đề=Higher education structure|nhà xuất bản=State University Higher School of Economics|url=http://www.hse.ru/lingua/en/rus-ed.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref>

Trong các trường đại học Nga có hơn 3 triệu [[giáo viên]] và nhân viên nghiên cứu, trong đó gần 45% [[giáo sư]] và [[phó giáo sư]]. Ngoài ra Nga hiện có gần 2000 trường [[đại học]], học viện và các cơ cấu giáo dục khác. Hệ thống giáo dục còn bao gồm gần 800 cơ quan nghiên cứu, phòng thiết kế thí nghiệm và những xí nghiệp do nhà trường xây dựng. Tuy nhiên đã từ lâu nền giáo dục Nga đã bộc lộ những bất cập nhất định. Các cuộc điều tra dư luận xã hội cho thấy tiền đầu tư cho giáo dục tăng nhưng chất lượng giáo dục lại giảm. Ngoài ra, Tổng thống Nga [[Vladimir Putin]] cho rằng Kỳ thi quốc gia nếu được tổ chức như hiện nay có thể chỉ để tuyển được những học sinh học vẹt mà không khuyến khích các em tư duy một cách khoa học.

[[Đại học Quốc gia Moskva]] hiện đang được đánh giá là trường đại học tốt nhất tại Nga.

=== Y tế ===
{{main article|Y tế tại Nga}}
[[Tập tin:Imma9.png|nhỏ|Một phòng khám tại Nga năm 2008]]
[[Hiến pháp Nga (1906)|Hiến pháp Nga]] đảm bảo [[chăm sóc y tế phổ thông]], miễn phí cho mọi công dân.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=The Constitution of the Russian Federation|work=(Article 41)|url=http://www.constitution.ru/en/10003000-03.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Tuy nhiên, trên thực tế chăm sóc sức khoẻ miễn phí bị giới hạn một phần bởi chế độ propiska.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Russian ombudsman about propiska restrictions in modern Russia|url=http://www.newsru.com/russia/06jun2007/lukin.html|ngày truy cập=ngày 23 tháng 7 năm 2008}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Residency Restrictions in Moscow by Brad K. Blitz|url=http://zakirov.ru/Citizenship_Studies.pdf|ngày truy cập=ngày 23 tháng 7 năm 2008|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20110716192047/http://zakirov.ru/Citizenship_Studies.pdf|ngày lưu trữ=2011-07-16|url-status=live}}</ref>
Tuy Nga có số cơ sở y tế, [[bệnh viện]] và nhân viên y tế lớn hơn hầu hết các quốc gia khác khi tính [[theo đầu người]],<ref>{{Chú thích sách|author=Field, M G|title=The health and demographic crisis in post-Soviet Russia: a two-phase development in "Russia's Torn Safety Nets", edited by Field M. G., Twigg J. L. (eds)|publisher=St. Martin's Press|location=2000:11–42}}</ref><ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Highlights on Health in the Russian Federation|nhà xuất bản=World Health Organization|năm=1999|url=http://www.euro.who.int/document/e72504.pdf|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|định dạng=PDF|archive-date=2007-07-29|archive-url=https://web.archive.org/web/20070729132728/http://www.euro.who.int/document/e72504.pdf|url-status=dead}}</ref> từ khi [[Liên Xô|Liên xô]] sụp đổ sức khoẻ dân chúng Nga đã suy giảm nghiêm trọng vì những thay đổi kinh tế, xã hội và phong cách sống.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Leonard, W R|tiêu đề=Declining growth status of indigenous Siberian children in post-Soviet Russia|tháng=April|năm=2002|url=http://findarticles.com/p/articles/mi_qa3659/is_200204/ai_n9037764|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 4 tháng 6 năm 2013 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130604101202/http://findarticles.com/p/articles/mi_qa3659/is_200204/ai_n9037764|url-status=dead}}</ref> Ở thời điểm năm 2014, [[tuổi thọ (người)|tuổi thọ]] trung bình tại Nga là 65.29 năm cho nam và 76.49 năm cho nữ.<ref name="demo26data">{{chú thích web|url=http://www.gks.ru/free_doc/new_site/population/demo/demo26.xls|format=XLS|script-title=ru:ОЖИДАЕМАЯ ПРОДОЛЖИТЕЛЬНОСТЬ ЖИЗНИ ПРИ РОЖДЕНИИ|trans-title=Life expectancy at birth|website=[[Rosstat]]|date=ngày 2 tháng 4 năm 2015|access-date =ngày 26 tháng 4 năm 2015|archive-date = ngày 21 tháng 3 năm 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20150321150842/http://www.gks.ru/free_doc/new_site/population/demo/demo26.xls|url-status=dead}}</ref> Tổng mức tuổi thọ trung bình của người Nga là 67.7 khi sinh, kém 10.8 năm so với con số tổng thể của cả Liên minh châu Âu.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ee.html|nhà xuất bản=Central Intelligence Agency|tiêu đề=European Union|ngày truy cập=ngày 20 tháng 1 năm 2008|archive-date = ngày 15 tháng 6 năm 2020 |archive-url=https://web.archive.org/web/20200615123528/https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/ee.html|url-status=dead}}</ref> Yếu tố lớn nhất dẫn tới mức tuổi thọ khá thấp của nam là tỷ lệ tử cao trong nam giới thuộc tầng lớp lao động vì những nguyên nhân có thể ngăn chặn (như, nhiễm độc rượu, stress, tai nạn giao thông, tội ác bạo lực). Tỷ lệ tử trong nam giới Nga đã tăng 60% từ năm 1991, cao hơn 4 lần của châu Âu.<ref name=heart>{{Chú thích web|tiêu đề=Heart disease kills 1.3 million annually in Russia — chief cardiologist|nhà xuất bản=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070214/60721668.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 4 tháng 1 năm 2010 |archive-url=https://web.archive.org/web/20100104210847/http://en.rian.ru/russia/20070214/60721668.html|url-status=dead}}</ref> Vì có sự khác biệt lớn giữa tuổi thọ của nam và nữ (nam giới Nga có tuổi thọ thấp hơn nhiều so với nữ do tình trạng lạm dụng rượu) và bởi hiệu ứng còn lại từ [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]], theo đó Nga [[Thương vong trong Thế chiến II|có số thiệt hại nhân mạng]] cao hơn bất kỳ nước nào trên thế giới, sự [[mất cân bằng giới tính]] vẫn còn lại tới ngày này và có 85,9 nam trên 100 nữ.

[[Tập tin:Газель МЧС.jpg|nhỏ|280px|trái|Xe cấp cứu do hãng xe Nga GAZelle chế tạo]]
Bệnh tim chiếm 56.7% tổng số tử vong, với khoảng 30% liên quan tới những người đang ở độ tuổi lao động. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rượu chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số tử vong (52%) của người dân Nga trong độ tuổi từ 15 tới 54 từ năm 1990 tới năm 2001. Với cùng mô hình nhân khẩu này, mức tử của toàn bộ thế giới vì rượu là 4%.<ref>Burlington Free Press, ngày 26 tháng 6 năm 2009, page 2A, "Study blames alcohol for half Russian deaths"</ref> Khoảng 16 triệu người Nga mắc các bệnh tim mạch, khiến Nga đứng hàng thứ hai thế giới, sau [[Ukraina]], trong lĩnh vực này.<ref name=heart/> Các tỷ lệ tử bởi giết người, tự tử và ung thư cũng đặc biệt cao.<ref name=cbs>{{Chú thích web|tiêu đề=Corruption Pervades Russia's Health System|nhà xuất bản=CBS News|url=http://www.cbsnews.com/stories/2007/06/28/world/main2992334.shtml|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 21 tháng 12 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071221023126/http://www.cbsnews.com/stories/2007/06/28/world/main2992334.shtml|url-status=dead}}</ref> 52% nam và 15% nữ hút thuốc, hơn 260,000 nhân mạng mất đi hàng năm vì sử dụng thuốc lá.<ref name=smokingria>{{Chú thích web|tiêu đề=Third of Russians smoke, but half welcome public smoking ban|nhà xuất bản=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070221/61054065.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 4 tháng 1 năm 2010 |archive-url=https://web.archive.org/web/20100104210345/http://en.rian.ru/russia/20070221/61054065.html|url-status=dead}}</ref> HIV/AIDS, rõ ràng không tồn tại trong thời kỳ Xô viết, đã nhanh chóng lan tràn sau khi Liên xô sụp đổ, chủ yếu bởi sự gia tăng chóng mặt nạn tiêm chích ma tuý.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=HIV/AIDS in the Russian Federation|nhà xuất bản=The World Bank|url=http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/COUNTRIES/ECAEXT/EXTECAREGTOPHEANUT/EXTECAREGTOPHIVAIDS/0,,contentMDK:20320143~menuPK:616427~pagePK:34004173~piPK:34003707~theSitePK:571172,00.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date=2010-04-13|archive-url=https://web.archive.org/web/20100413154402/http://web.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/COUNTRIES/ECAEXT/EXTECAREGTOPHEANUT/EXTECAREGTOPHIVAIDS/0,,contentMDK:20320143~menuPK:616427~pagePK:34004173~piPK:34003707~theSitePK:571172,00.html|url-status=dead}}</ref> Theo các thống kê chính thức, hiện có hơn 364,000 người Nga có HIV, nhưng những chuyên gia độc lập coi con số thực lớn hơn rất nhiều.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Russian regional HIV vaccine center seeks $40–50 mln from budget|nhà xuất bản=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20070206/60289838.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 23 tháng 6 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080623081834/http://en.rian.ru/russia/20070206/60289838.html|url-status=dead}}</ref> Trong những nỗ lực ngày càng gia tăng để chiến đấu với căn bệnh này, chính phủ đã tăng chi tiêu vào các biện pháp kiểm soát HIV gấp 20 lần năm 2006, và ngân sách năm 2007 đã tăng gấp đôi ngân sách năm 2006.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.unaids.org/en/CountryResponses/Countries/russian_federation.asp Russian Federation AIDS information|tiêu đề=Russian Federation|ngày truy cập=ngày 11 tháng 3 năm 2008|nhà xuất bản=UNAIDS: The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS|archive-date = ngày 9 tháng 4 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080409120835/http://www.unaids.org/en/CountryResponses/Countries/russian_federation.asp|url-status=dead}}</ref> Từ khi Liên xô tan rã, cũng có sự gia tăng nhanh chóng về số ca và số tử vong vì bệnh lao, và bệnh này lan đặc biệt nhanh trong cộng đồng tù nhân.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=119,000 TB cases in Russia — health official|nhà xuất bản=RIA Novosti|url=http://en.rian.ru/russia/20060127/43221133.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref>

Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhân khẩu tại Nga, chính phủ hiện đang áp dụng một số chương trình được thiết kế để gia tăng tỉ lệ sinh thu hút thêm nhiều người nhập cư. Chính phủ đã tăng gấp đôi khoản trợ cấp hàng tháng cho trẻ em và cấp khoản chi một lần 250,000 Rubles (khoảng US$10,000) cho phụ nữ sinh đứa con thứ hai từ năm 2007.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Country Profile: Russia|nhà xuất bản=[[Thư viện Quốc hội Mỹ|Library of Congress]]—Federal Research Division|tháng=October|năm=2006|url=http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/profiles/Russia.pdf|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|định dạng=PDF|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20050226190624/http://lcweb2.loc.gov/frd/cs/profiles/Russia.pdf|ngày lưu trữ=2005-02-26|url-status=live}}</ref> Năm 2007, Nga có [[Sinh suất|tỉ lệ sinh]] lớn nhất từ khi Liên xô tan rã.<ref>{{Chú thích web|url=http://economictimes.indiatimes.com/News/International_Business/Russian_policies_ignite_unprecedented_birth_rate_in_2007/articleshow/2750305.cms|nhà xuất bản=The Economic Times|tiêu đề=Russian policies ignite unprecedented birth rate in 2007|ngày truy cập=ngày 11 tháng 3 năm 2008}}</ref> Phó thủ tướng thứ nhất cũng đã nói khoảng 20 tỷ Ruble (khoảng US$1 triệu) sẽ được đầu tư vào các trung tâm chăm sóc tiền sinh sản tại Nga trong năm 2008–2009. Nhập cư ngày càng được coi là cần thiết để duy trì mức độ dân số quốc gia.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=United Nations Expert Group Meeting On International Migration and Development|nhà xuất bản=Population Division; Department of Economic and Social Affairs; United Nations Secretariat|ngày=6–ngày 8 tháng 7 năm 2005|url=http://www.un.org/esa/population/meetings/ittmigdev2005/P11_Rybakovsky&Ryazantsev.pdf|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|định dạng=PDF}}</ref>

Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Nga đang diễn ra kể từ năm 2014, các khoản cắt giảm lớn về chi tiêu dành cho lĩnh vực y tế đã dẫn đến sự suy giảm chất lượng dịch vụ của hệ thống y tế trên toàn liên bang. Khoảng 40% các cơ sở y tế phải cắt giảm nhân sự, trong khi một số khác phải đóng cửa. Thời gian chờ điều trị đã tăng lên, và bệnh nhân bị buộc phải trả thêm tiền cho các dịch vụ mà trước đó hoàn toàn miễn phí <ref>{{chú thích báo|title=In Putin's Russia, Universal Health Care Is for All Who Pay|url=https://www.bloomberg.com/news/articles/2015-05-13/in-russia-universal-health-care-is-for-all-who-can-afford-it|access-date =ngày 24 tháng 4 năm 2017|work=Bloomberg.com|date=ngày 13 tháng 5 năm 2015}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://www.jamestown.org/single/?tx_ttnews%5Btt_news%5D=42927&no_cache=1#.V5RZTqIlrIU|tiêu đề=Putin's Cutbacks in Health Care Send Russian Mortality Rates Back Up – Jamestown|nhà xuất bản=}}</ref>.

== Văn hóa ==
{{Văn hóa Nga}}
{{chính|Văn hóa Nga}}

=== Văn hoá dân gian===
Có hơn 160 nhóm dân tộc khác nhau cùng với người dân bản địa ở Nga tạo nên sự đa dạng văn hóa của quốc gia này. Bên cạnh nền văn hóa [[Slav Chính thống]] của [[Người Nga]], còn có văn hóa [[Hồi giáo]] của người [[Tatar]] và [[Bashkir]], nền văn hóa mang đậm ảnh hưởng [[Phật giáo]] của các bộ tộc du mục [[Người Buryat|Buryat]] và [[Người Kalmyk|Kalmyk]], những người [[Shaman giáo]] ở cực Bắc và [[Siberia]], hay nền văn hóa của người Finno-Ugric vùng Tây Bắc của Nga và vùng [[sông Volga]].

Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, như đồ chơi [[Dymkovo]], tranh gỗ [[khokhloma]], gốm sứ [[gzhel]] và tranh sơn mài tiểu họa [[Palekh]] chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hoá dân gian Nga. Trang phục truyền thống của Nga bao gồm [[kaftan]], [[kosovorotka]] và [[ushanka]] cho nam giới, [[sarafan]] và [[kokoshnik]] cho nữ giới, cùng với các loại giày như [[lapti]] và [[valenki]]. Quần áo của dân [[Cossacks]] từ miền Nam nước Nga bao gồm [[burka]] và [[papaha]].

Các dân tộc ở Nga có truyền thống đặc biệt về âm nhạc dân gian. Các nhạc cụ truyền thống điển hình của Nga là [[gusli]], [[balalaika]], [[zhaleika]], và [[garmoshka]]. Âm nhạc dân gian có ảnh hưởng đáng kể đến các nhà soạn nhạc cổ điển Nga, và trong thời hiện đại, nó là nguồn cảm hứng cho một số ban nhạc dân ca nổi tiếng như [[Melnitsa]].

Người Nga cũng có nhiều truyền thống đặc sắc khác, bao gồm [[tắm hơi kiểu Nga]] hay còn gọi là banya. Nhiều truyện cổ tích và các tác phẩm sử thi của Nga đã được chuyển thể thành phim hoạt hình, hoặc các bộ phim nổi bật của những đạo diễn như [[Aleksandr Ptushko]] (với các bộ phim như [[Ilya Muromets]], [[Sadko]]) và Aleksandr Rou (đạo diễn các phim [[Morozko]], [[Vasilisa the Beautiful|Vasilisa Xinh đẹp]]). Các nhà thơ Nga, bao gồm [[Pyotr Yershov]] và [[Leonid Filatov]], đã chuyển thể các câu chuyện dân gian thành những tác phẩm thơ rất đáng chú ý, trong khi một số nhà thơ kiệt xuất khác như [[Alexander Pushkin]] thậm chí đã sáng tác ra cả những bài thơ cổ tích nguyên gốc rất phổ biến.

=== Ẩm thực ===
{{chính|Ẩm thực Nga}}

Ẩm thực đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội Nga. Những ảnh hưởng của phương Tây đang có tác động đáng kể đến thói quen ăn uống và khẩu vị của người dân, khi các hãng [[McDonald's]] phát triển tràn lan, và các quán cà phê theo phong cách [[Paris]] xuất hiện trên các lề phố [[Moskva]] hay [[St.Petersburg]]. Tuy nhiên, những món ăn truyền thống và các đặc sản của Nga như rượu [[vodka]] hay bánh mì "karavai" vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của chúng trong các bữa tiệc hay lễ lớn của Nga.<ref>Russian Cuisine by Ruth Jenkins, page 48</ref>

Vào mùa đông, [[nhiệt độ]] có thể xuống tới -20&nbsp;°C tại thủ đô [[Moskva]], vì thế, các thức ăn béo, giàu năng lượng như [[bánh mì]], trứng, [[bơ]] hay [[sữa]] là rất cần thiết. Ngoài ra còn có những món đặc sản đặc biệt như [[shchi]] (súp thịt bò và bắp cải) hay [[Borsch|borshch]] (súp củ cải đỏ với thịt lợn). Đôi khi người ta cũng ăn [[khoai tây]] nghiền, rán vào cuối bữa hoặc [[Bánh nướng chảo|bliny]], một loại [[bánh kếp]] ăn kèm với [[mật ong]] hoặc [[Trứng cá muối|trứng cá]].

Ngoài thức ăn, người Nga còn có nhiều đồ uống nổi tiếng trên thế giới như rượu [[vodka]] thường được làm từ [[lúa mạch đen]] hay [[lúa mì|lúa mỳ]]. Đôi khi nó còn được pha thêm [[hồ tiêu|tiêu]], [[dâu tây|dâu]] hay [[chanh]]. Một đồ uống nổi tiếng khác là [[sbiten]], được làm từ mật ong và thêm một chút hương liệu khác như [[dâu tây|dâu]]. [[Trà|Chè]] cũng là một thứ đồ uống nổi tiếng khác. Nó là một loại đồ uống truyền thống và đôi khi cũng được uống kèm [[sữa]].

===Kiến trúc===

[[Tập tin:Moscow July 2011-4a.jpg|nhỏ|230px|Nhà thờ Thánh Vasily]]

Kiến trúc Nga thời trung cổ ảnh hưởng chủ yếu bởi kiến trúc [[Byzantine]]. [[Aristotle Fioravanti]] và kiến trúc sư người Ý khác đã mang xu hướng kiến trúc [[Phục Hưng]] vào Nga kể từ cuối thế kỷ 15. Những thiết kế khác của các kiến trúc sư Ý trong thời kì này như [[cung điện Facets|cung điện Granovitaya]] ở Moskva hoặc việc tu sửa và xây dựng lại [[Điện Kremli]] vào những năm 1485 – 1492 đã đem lại một sự pha trộn kiến trúc gây ấn tượng rất mạnh. Công trình xây dựng [[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily|Nhà thờ chính tòa thánh Vasily]] năm 1555, cùng nhiều nhà thờ khác với kiểu kiến trúc nhiều mái vòm được tiếp tục thực hiện trong kế hoạch xây dựng của nước Nga ở thế kỷ thứ 16. Trong thế kỷ 17, "phong cách bốc lửa" của trang trí phát triển mạnh ở Moskva và Yaroslavl, dần dần mở đường cho phong cách baroque Naryshkin của những năm 1690. Sau những cải cách của [[Peter Đại đế]], phong cách kiến trúc ở Nga dần chịu ảnh hương mạnh mẽ của Tây Âu.

Triều đại của [[Catherine Đại đế]] và cháu trai Alexander vào thế kỷ 18 đã chứng kiến sự hưng thịnh của kiến trúc Tân cổ điển, đáng chú ý nhất ở thủ đô [[Saint Petersburg|Sankt Peterburg]] với đỉnh cao là công trình [[Cung điện mùa đông]]. Vào Thế kỷ thứ 19, lối thiết kế mang phong cách [[Hy Lạp]] phục hưng được phát triển và phong cách thiết kế kinh điển của Nga cũng được hồi sinh vào giữa thế kỷ này.

Hầu hết các công trình kiến trúc từ năm 1850 – 1917 không có nét gì nổi bật, thường là thực hiện kém chất lượng và mang sự hỗn độn của các phong cách thiết kế. Vào thế kỷ 20, những kiến trúc sư trẻ đã theo phong trào thiết kế có xu hướng tạo dựng và phong cách thiết kế kiến trúc hiện đại mới.

=== Tôn giáo ===
{{chính|Tôn giáo ở Nga}}
[[Tập tin:Moscow July 2011-7a.jpg|nhỏ|đứng|trái|220px|[[Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, Moskva|Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ]], bị phá bỏ thời Xô-viết và được xây dựng lại năm 1990–2000.]]
{{Bar box
|title=Tôn giáo tại Nga (2012)<ref name="2012ArenaAtlas">[http://sreda.org/en/arena "Arena: Atlas of Religions and Nationalities in Russia"]. Sreda, 2012.</ref><ref name="2012Arena-religion-maps">[http://c2.kommersant.ru/ISSUES.PHOTO/OGONIOK/2012/034/ogcyhjk2.jpg 2012 Arena Atlas Religion Maps]. "Ogonek", № 34 (5243), 27/08/2012. Truy cập 21/04/2017. [https://web.archive.org/web/20170421154615/http://c2.kommersant.ru/ISSUES.PHOTO/OGONIOK/2012/034/ogcyhjk2.jpg Archived].</ref>
|float=right
|bars=
{{Bar percent|Chính thống giáo Nga|DarkOrchid|71.1}}
{{Bar percent|Hồi giáo|Green|6.6}}
{{Bar percent|Phật giáo|Yellow|0.5}}
{{Bar percent|Vô thần|Black|13}}
{{Bar percent|Khác|DarkSlateGray|6.1}}
}}
[[Kitô giáo|Cơ Đốc giáo]], [[Hồi giáo]], [[Phật giáo]] và [[Pagan giáo]] là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997.<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Bell, I|tiêu đề=Eastern Europe, Russia and Central Asia|url=http://books.google.com/books?id=EPP3ti4hysUC&pg=PA47|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số.<ref>{{Chú thích sách|author=Zuckerman, P|title=Atheism: Contemporary Rates and Patterns, chapter in The Cambridge Companion to Atheism, ed. by Michael Martin|publisher=Cambridge University Press|year=2005|isbn=}}</ref> [[Giáo hội Chính thống giáo Nga|Chính thống giáo Nga]] được coi là quốc giáo và là tôn giáo chiếm đa số ở Nga.<ref name=relig>{{Chú thích web|tiêu đề=Religion In Russia|nhà xuất bản=Embassy of the Russian Federation|url=http://www.russianembassy.org/RUSSIA/religion.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20010208072455/http://www.russianembassy.org/RUSSIA/religion.htm|ngày lưu trữ=2001-02-08|url-status=dead}}</ref> 95% xứ đạo có đăng ký thuộc Giáo hội Chính thống Nga trong khi có một số Giáo hội Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, Nhà thờ được cả các tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá Nga.<ref name=encarta>{{Chú thích web|họ 1=Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007|tiêu đề=Russia|url=http://encarta.msn.com/encyclopedia_761569000_6/Russia.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 9 tháng 1 năm 2008 |archive-url=https://web.archive.org/web/20080109010927/http://encarta.msn.com/encyclopedia_761569000_6/Russia.html|url-status=dead}}</ref> Các phái Cơ đốc giáo nhỏ hơn như [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo Rôma]], và nhiều phái [[Tin Lành]] có tồn tại.

Tổ tiên của nhiều người Nga hiện nay [[Cơ Đốc giáo hoá Kievan Rus'|đã chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống]] ở thế kỷ thứ X.<ref name=encarta/> Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2007/90196.htm|ngày truy cập=ngày 8 tháng 4 năm 2008|tiêu đề=Russia}}</ref> Theo một cuộc điều tra của [[VCIOM|Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga]], 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ [[Hồi giáo]] và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo, Tin Lành hay Do Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và 16% nói họ là người vô thần.<ref name=religionsurvey>{{Chú thích web|tiêu đề={{ru_icon}} Опубликована подробная сравнительная статистика религиозности в России и Польше|nhà xuất bản=religare.ru|ngày=ngày 6 tháng 6 năm 2007|url=http://www.religare.ru/article42432.htm|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref>

[[Tập tin:Kishi church 0.jpg|nhỏ|đứng|phải|250px|Nhà thờ gỗ trên đảo Kizhi]]
Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu [[Hồi giáo ở Nga|tín đồ Hồi giáo]].<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Fact Box: Muslims In Russia|nhà xuất bản=Radio Free Europe|url=http://www.rferl.org/content/article/1060152.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref><ref name=timesmuslim>{{Chú thích web|tác giả 1=Page, J|tiêu đề=The rise of Russian Muslims worries Orthodox Church|published=The Times|url=http://www.timesonline.co.uk/tol/news/world/article551693.ece|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref> Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền [[Roman Silantyev]] đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.interfax-religion.com/?act=news&div=2869|nhà xuất bản=Interfax|tiêu đề=20Mln Muslims in Russia and mass conversion of ethnic Russians are myths — expert|ngày truy cập=ngày 1 tháng 4 năm 2008}}</ref> Nga cũng có ước tính 3 tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ [[Các quốc gia hậu Xô viết|các nước cộng hoà hậu Liên xô]].<ref name=financialtimes>{{Chú thích web|tiêu đề=Russia's Islamic rebirth adds tension|nhà xuất bản=Financial Times|url=http://www.ft.com/cms/s/0/3f3fba2c-474f-11da-b8e5-00000e2511c8.html|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date = ngày 21 tháng 11 năm 2007 |archive-url=https://web.archive.org/web/20071121232919/http://www.ft.com/cms/s/0/3f3fba2c-474f-11da-b8e5-00000e2511c8.html|url-status=dead}}</ref> Đa số tín đồ Hồi giáo sống ở vùng [[Vùng liên bang Volga|Volga-]][[Vùng liên bang Ural|Ural]], cũng như [[Vùng liên bang Bắc Kavkaz|Bắc Kavkaz]], [[Moskva]],<ref>[https://web.archive.org/web/20090625054712/http://www.voanews.com/english/archive/2007-06/ng%C3%A0y 27 tháng 6 năm 2007-voa4.cfm Russia Faces Population Dilemma], VOA News, ngày 18 tháng 6 năm 2007</ref> [[Sankt-Peterburg|Sankt Peterburg]] và [[Tây Siberia]].<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Mainville, M|tiêu đề=Russia has a Muslim dilemma|work=Page A - 17|nhà xuất bản=San Francisco Chronicle|ngày=ngày 19 tháng 11 năm 2006|url=http://sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=/c/a/2006/11/19/MNGJGMFUVG1.DTL|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|archive-date=2012-05-13|archive-url=https://web.archive.org/web/20120513173431/http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=%2Fc%2Fa%2F2006%2F11%2F19%2FMNGJGMFUVG1.DTL|url-status=dead}}</ref> [[Phật giáo]] là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: [[Buryatia]], [[Tuva]], và [[Kalmykia]].<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=Nettleton, S|tiêu đề=Prayers for Ivolginsky|nhà xuất bản=CNN|url=http://www.cnn.com/SPECIALS/2000/russia/story/train/ivolginsky.monastery/|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20011122131758/http://www.cnn.com/SPECIALS/2000/russia/story/train/ivolginsky.monastery/|ngày lưu trữ=2001-11-22|url-status=live}}</ref> Một số người sống ở Siberia và [[Vùng liên bang Viễn Đông|vùng Viễn Đông]], [[Cộng hòa Sakha|Yakutia]], [[Khu tự trị Chukotka|Chukotka]].. thực hiện các nghi thức [[Shaman giáo|Shaman]], [[thuyết phiếm thần]] cùng với các tôn giáo chính. Việc tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số [[người Slav]] theo Cơ Đốc giáo Chính thống. Những người nói [[Nhóm ngôn ngữ Turk|tiếng Turk]] chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turk tại Nga không theo.<ref name=religion2>{{Chú thích web|tiêu đề=Russia::Religion|nhà xuất bản=Encyclopædia Britannica Online|năm=2007|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/513251/Russia|ngày truy cập=ngày 27 tháng 12 năm 2007}}</ref>

Dưới thời Xô Viết, chính phủ đã thực hiện chính sách bài trừ tôn giáo <ref name="Kowalewski">{{Chú thích tạp chí|last=Kowalewski|first=David|date=October 1980|title=Protest for Religious Rights in the USSR: Characteristics and Consequences|url=https://archive.org/details/sim_russian-review_1980-10_39_4/page/426|journal=Russian Review|volume=39|issue=4|pages=426–441|doi=10.2307/128810|jstor=128810}}</ref> và cùng với đó cố gắng truyền bá [[chủ nghĩa vô thần]].<ref>{{Chú thích sách|title=Religious Policy in the Soviet Union|url=https://archive.org/details/religiouspolicys00rame|last=Ramet|first=Sabrina Petra. (Ed)|publisher=Cambridge University Press|year=1993|pages=[https://archive.org/details/religiouspolicys00rame/page/n23 4]}}</ref><ref>{{Chú thích sách|title=Religion, State and Politics in the Soviet Union and Successor States|url=https://archive.org/details/religionstatepol0000ande|last=Anderson|first=John|publisher=Cambridge University Press|year=1994|isbn=978-0-521-46784-1|location=Cambridge|page=[https://archive.org/details/religionstatepol0000ande/page/3 3]}}</ref> Nhà nước công khai bôi nhọ các tôn giáo cũng như các tín đồ của họ, đồng thời nỗ lực tuyên truyền chủ nghĩa vô thần tại các trường học.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.loc.gov/exhibits/archives/anti.html|title=Anti-religious Campaigns|date=|publisher=Loc.gov|access-date =ngày 19 tháng 9 năm 2011}}</ref>

Chủ nghĩa vô thần nhà nước ở Liên Xô được biết đến trong tiếng Nga là ''gosateizm'',<ref name="Kowalewski" /> được dựa trên hệ tư tưởng của [[Chủ nghĩa Marx–Lenin|chủ nghĩa Marx-Lenin]].Chủ nghĩa Marx-Lenin đã luôn ủng hộ việc kiểm soát, đàn áp và loại bỏ tôn giáo khỏi đời sống xã hội. Trong vòng một năm sau cuộc cách mạng tháng Mười, nhà nước đã chiếm đoạt tất cả tài sản của các nhà thờ, thậm chí chiếm đoạt chính các nhà thờ, và trong giai đoạn từ 1922 đến 1926, 28 [[giám mục]] Chính thống Nga và hơn 1.200 [[Tư tế|linh mục]] đã bị giết hại <ref name=autogenerated3>[http://countrystudies.us/russia/38.htm Nghiên cứu Quốc gia: Nga - Nhà thờ Chính thống Nga] Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2008</ref>

Theo một điều tra gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew Research Center vào năm 2015, 71% dân số Nga tự xưng là tín đồ Chính thống giáo Nga, 15% là [[Chủ nghĩa vô thần|những người vô thần]], [[Thuyết bất khả tri|bất khả tri]] và những người không theo một tôn giáo cụ thể nào. Hồi giáo chiếm 10%, tín đồ các phái Kitô hữu khác chiếm 2%, trong khi 1% thuộc về các tôn giáo khác.<ref name="Religious Belief in Central and Eastern Europe">{{Chú thích web|url=http://assets.pewresearch.org/wp-content/uploads/sites/11/2017/05/10104119/CEUP-FULL-REPORT.pdf|title=Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe|author=ANALYSIS|date=ngày 10 tháng 5 năm 2017|archive-url=https://web.archive.org/web/20170513130508/http://assets.pewresearch.org/wp-content/uploads/sites/11/2017/05/10104119/CEUP-FULL-REPORT.pdf|archive-date=ngày 13 tháng 5 năm 2017|url-status=dead|access-date =ngày 12 tháng 5 năm 2017}}</ref> Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong thời kỳ Xô viết, sự đàn áp tôn giáo của chính phủ đã lan rộng, vào năm 1991 chỉ có 37% dân số Nga là tín đồ Chính thống giáo. Sau khi [[Liên Xô tan rã]], tỉ lệ tín đồ Chính thống giáo ở Nga đã tăng lên đáng kể và năm 2015, khoảng 71% dân số Nga tuyên bố mình là tín đồ Chính thống giáo Nga, trong khi tỷ lệ người không thực hành tôn giáo đã giảm từ 61% trong năm 1991 xuống còn 18% trong năm 2008.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.pewforum.org/2017/05/10/religious-belief-and-national-belonging-in-central-and-eastern-europe/|title=Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe|date=ngày 10 tháng 5 năm 2017|publisher=}}</ref>

===Âm nhạc===
[[Tập tin:Tchaikovsky by Reutlinger.jpg|200px|nhỏ|Nhà soạn nhạc lừng danh Tchaikovsky]]

[[Nhạc cổ điển]] phát triển mạnh ở Nga vào [[thế kỷ 19]]. Nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất của Nga là [[Pyotr Ilyich Tchaikovsky]]. Sang đến thế kỷ 20, một số nhà soạn nhạc nổi tiếng của Nga là [[Alexander Scriabin]], [[Igor Stravinsky]], [[Sergei Prokofiev]], [[Dmitri Shostakovich]] và [[Alfred Schnittke]].

Nhạc viện Nga đã cho ra nhiều thế hệ nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng. Trong số những người nổi tiếng nhất là các nghệ sĩ violin [[Jascha Heifetz]], [[David Oistrakh]], [[Leonid Kogan]], [[Gidon Kremer]] và [[Maxim Vengerov]]; các nghệ sĩ [[cello]] [[Mstislav Rostropovich]], [[Natalia Gutman]]; các nghệ sĩ dương cầm [[Vladimir Horowitz]], [[Sviatoslav Richter]], [[Emil Gilels]], [[Vladimir Sofronitsky]] và [[Evgeny Kissin]]; các ca sĩ [[Fyodor Shalyapin]], [[Mark Reizen]], [[Elena Obraztsova]], [[Tamara Sinyavskaya]], [[Nina Dorliak]], [[Galina Vishnevskaya]], [[Anna Netrebko]] và [[Dmitry Hvorostovsky]].;

Nửa sau [[thế kỷ 19]], trung tâm thế giới [[Ballet]] chuyển từ Pháp sang Nga. Một trong những người tạo ra kỷ nguyên vàng cho Trường Ballet Hoàng gia Nga và đóng vai trò lớn trong việc biến St. Petersburg trở thành kinh đô của [[ballet]] thế giới là [[Marius Petipa]]. Đoàn [[Ballet Bolshoi]] tại [[Moskva]] và Mariinsky Ballet tại [[St Petersburg]] là nơi đào tạo ra những diễn viên balê vĩ đại nhất của mọi thời đại, trong đó nổi bật lên là hai cái tên [[Anna Pavlova]] và [[Vaslav Nijinsky]], ngoài ra thời Xô viết còn có một số nghệ sỹ ballet nổi tiếng như [[Galina Ulanova]], [[Maya Plisetskaya]], [[Rudolf Nureyev]], và [[Mikhail Baryshnikov]].

Nhạc rock hiện đại của Nga chịu ảnh hưởng từ cả nhạc [[rock and roll]] và [[heavy metal]] của phương Tây cũng như các ban nhạc truyền thống thời kỳ Xô Viết, như Vladimir Vysotsky và Bulat Okudzhava <ref>[http://www.russia-ic.com/culture_art/music/380/#r1 Lịch sử của nhạc Rock ở Nga]</ref>. Các nhóm nhạc rock nổi tiếng của Nga bao gồm [[Mashina Vremeni]], [[DDT]], [[Aquarium]], [[Alisa]], [[Kino]], [[Kipelov]], [[Nautilus Pompilius]], [[Aria]], [[Grazhdanskaya Oborona]], [[Splean]] và [[Korol i Shut]]. Nhạc pop hiện đại của Nga cũng xuất hiện một số gương mặt đạt được danh tiếng nhất định ở tầm quốc tế chẳng hạn như [[t.A.T.u]], [[Nu Virgos]] và [[Vitas]].

===Văn học===

[[Tập tin:Portrait of Alexander Pushkin (Orest Kiprensky, 1827).PNG|nhỏ|200px|[[Alexander Pushkin]]]]
[[Thế kỷ 18]] được coi là thời kỳ Khai sáng của văn học Nga, sự phát triển của [[văn học Nga]] đã được đặt nền móng trong giai đoạn này bởi các tác phẩm của [[Mikhail Lomonosov]] và [[Denis Fonvizin]]. Vào đầu thế kỷ 19 là thời điểm xuất hiện một số nhà văn, nhà thơ được coi là vĩ đại nhất trong [[lịch sử Nga]]. Giai đoạn này còn được gọi là thời hoàng kim của Văn học Nga, mở đầu với [[Alexander Pushkin]], người được coi là đã sáng lập ra ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và thường được ca tụng là "[[Shakespeare]] của nước Nga" <ref>{{chú thích sách|author=Kelly, C|title=Russian Literature: A Very Short Introduction (Paperback)|url=https://archive.org/details/russianliteratur00kell_0|publisher=Oxford Paperbacks|isbn=0-19-280144-9|year=2001}}</ref>. Tiếp theo là thơ của [[Mikhail Lermontov]] và [[Nikolay Nekrasov]], kịch của [[Alexander Ostrovsky]] và [[Anton Chekhov]], và văn xuôi của [[Nikolai Gogol]] và [[Ivan Turgenev]]. [[Lev Tolstoy]] và [[Fyodor Dostoyevsky]] đã được các nhà phê bình văn học ca ngợi là những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất mọi thời đại<ref>{{Chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/513793/Russian-literature|nhà xuất bản=Encyclopædia Britannica|ngày truy cập=ngày 11 tháng 4 năm 2008|tiêu đề=Russian literature; Leo Tolstoy}}</ref><ref>{{chú thích báo|work=Time Magazine |url=http://content.time.com/time/magazine/article/0,9171,943893,00.html|access-date =ngày 10 tháng 4 năm 2008|title=Freaking-Out with Fyodor|author=Otto Friedrich|date=ngày 6 tháng 9 năm 1971}}</ref>.

Đến những năm 1880, truyện ngắn và thơ trở thành thể loại thống trị. Các tác giả hàng đầu của thời đại này bao gồm các nhà thơ như [[Valery Bryusov]], [[Vyacheslav Ivanov]], [[Alexander Blok]], [[Nikolay Gumilev]] và [[Anna Akhmatova]], và các tiểu thuyết gia như [[Leonid Andreyev]], [[Ivan Bunin]] và [[Maxim Gorky]].

Sau cuộc [[Cách mạng Nga (1917)|Cách mạng Nga năm 1917]], nhiều [[nhà văn]] và [[Nhà triết học|triết gia]] nổi tiếng đã rời bỏ đất nước, bao gồm Bunin, [[Vladimir Nabokov]] và Nikolay Berdyayev, trong khi một thế hệ các tác giả tài năng mới tham gia cùng nhau trong nỗ lực tạo ra một nền văn hóa riêng biệt. Trong [[Thập niên 1930|những năm 1930]], kiểm duyệt văn học đã được thắt chặt phù hợp với chính sách [[chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa]]. Vào cuối [[Thập niên 1950|những năm 1950]], các hạn chế về văn học đã được nới lỏng, và vào [[Thập niên 1970|những năm 1970]] và [[Thập niên 1980|1980]], các [[nhà văn]] dần thoát khỏi việc bị trói buộc bởi nhà nước trong sáng tác văn học. Các tác giả hàng đầu của thời đại [[Xô viết]] bao gồm các tiểu thuyết gia [[Yevgeny Zamyatin]] (di cư), [[Mikhail Bulgakov]] (bị kiểm duyệt) và [[Mikhail Sholokhov]], cùng với các nhà thơ [[Vladimir Mayakovsky]], [[Yevgeny Yevtushenko]] và [[Andrey Voznesensky]]. [[Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn]] là [[nhà văn]] nổi tiếng lên án chế độ khủng bố Stalin qua tác phẩm ''GULAG quần đảo địa ngục'' từng đoạt giải thưởng [[Nobel Văn học]].

===Điện ảnh và truyền thông===
Các phim chiếu rạp của Nga và sau đó là Liên Xô bùng nổ mạnh mẽ giai đoạn sau năm [[1917]], kết quả là đã cho ra đời một số bộ phim nổi tiếng thế giới như ''Chiến hạm Potemkin'' của [[Sergei Mikhailovich Eisenstein|Sergei Eisenstein]]. Eisenstein là một sinh viên của nhà làm phim và nhà lý thuyết Lev Kuleshov, người đã phát triển lý thuyết về dựng phim và biên tập phim tại trường điện ảnh đầu tiên trên thế giới, Viện điện ảnh All-Union. Dưới thời [[Stalin]], chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của nhà nước đã phần nào hạn chế sự sáng tạo của các nhà làm phim; tuy nhiên, nhiều bộ phim của Liên Xô theo phong cách này đã thành công về mặt nghệ thuật, bao gồm ''Chapaev'', ''[[Khi đàn sếu bay qua]]'' và ''[[Bài ca người lính]]''.

Những năm 1960 và 1970 chứng kiến nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau trong điện ảnh Liên Xô. Các bộ phim hài của [[Eldar Ryazanov]] và [[Leonid Gaidai]] trong thời gian đó rất phổ biến. Năm 1961–68, [[Sergey Bondarchuk]] đạo diễn bộ phim ''[[Chiến tranh và Hòa bình ]]'' dựa trên cuốn tiểu thuyết của Leo Tolstoy và đã đoạt giải [[Oscar]] năm 1968, đây cũng là bộ phim đắt nhất từng được sản xuất tại Liên Xô <ref>Birgit Beumers. ''A History of Russian Cinema''. Berg Publishers (2009). {{ISBN|978-1-84520-215-6}}. p. 143.</ref>.

[[Hoạt hình]] của Nga có niên đại từ thời [[Đế quốc Nga]]. Trong thời kỳ Xô viết, xưởng phim Soyuzmultfilm là nhà sản xuất phim hoạt hình lớn nhất. Những đạo diễn nổi tiếng của Nga trong thể loại phim họa hình là [[Ivan Ivanov-Vano]], [[Fyodor Khitruk]] và [[Aleksandr Tatarsky]]. Nhiều nhân vật hoạt hình như [[Cheburashka]] (được coi là [[gấu Pooh]] của Nga), [[Sói]] và [[Thỏ]] trong ''[[Hãy đợi đấy!]]'' (được coi là [[Tom và Jerry]] của Nga), là những hình tượng mang tính biểu tượng ở Nga và nhiều nước xung quanh.

Cuối những năm 1980 và 1990 là một thời kỳ khủng hoảng của điện ảnh và hoạt hình Nga. Mặc dù các nhà làm phim Nga đã được tự do thể hiện tính sáng tạo của bản thân, các khoản trợ cấp của nhà nước đã giảm đáng kể, dẫn đến ít phim được sản xuất hơn. Những năm đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến lượng người xem tăng lên và sự thịnh vượng trở lại của ngành công nghiệp điện ảnh khi nền kinh tế đã có sự hồi phục.

Trong khi có rất ít đài phát thanh hoặc các kênh truyền hình trong thời Liên Xô, từ hai thập kỷ qua, nhiều đài phát thanh và kênh truyền hình do cả nhà nước và tư nhân sở hữu đã xuất hiện. [[Kiểm duyệt]] và tự do truyền thông ở Nga luôn là chủ đề chính của truyền thông Nga.

===Thể thao===
[[Tập tin:Opening of XXII Winter Olympic Games (2338-13).jpg|220px|nhỏ|Khai mạc [[Thế vận hội Mùa đông 2014]], kỳ [[thế vận hội]] mà Nga là chủ nhà.|thế=]]
[[Tập tin:Maria Sharapova - Roland-Garros 2013 - 002.jpg|230px|nhỏ|Tay vợt [[Maria Sharapova]].|thế=]]
Các [[Vận động viên|vận động viên thể thao]] của Liên Xô và sau đó là của Nga luôn nằm trong top 4 nước đạt nhiều huy chương vàng nhất tại tất cả các kỳ [[Thế vận hội Mùa hè|Thế vận hội mùa hè]] mà họ từng tham dự. Nga (tính cả Liên Xô) đã 2 lần đăng cai [[Thế vận hội]]. [[Thế vận hội Mùa hè 1980|Thế vận hội mùa hè 1980]] đã được tổ chức tại [[Moskva]] trong khi [[Thế vận hội mùa đông 2014]] được tổ chức tại [[Sochi]].

[[Doping]] là một vấn đề rất lớn và hết sức tiêu cực của thể thao Nga. Tổng cộng đã có 51 huy chương vàng của các vận động viên Nga bị [[IOC]] tước đoạt do sử dụng doping, nhiều nhất trong số tất cả các nước trên thế giới. Từ năm 2011 đến năm 2015, hơn 1000 vận động viên của Nga trong nhiều môn thể thao khác nhau, bao gồm cả các môn mùa hè, mùa đông và các môn thể thao Paralympic (dành cho người khuyết tật), được hưởng lợi từ sự che đậy của nhà nước đối với hành vi sử dụng doping <ref>{{chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/2016/07/19/sports/report-confirms-state-sponsored-doping-by-russia-at-olympics.html|title=Russia May Face Olympics Ban as Doping Scheme Is Confirmed|last=Ruiz|first=Rebecca|date=18 July 2016|newspaper=[[The New York Times]]|issn=0362-4331|access-date =26 July 2016}}</ref><ref>{{chú thích báo |url= https://www.wada-ama.org/en/resources/doping-control-process/mclaren-independent-investigation-report-part-ii|title=MCLAREN INDEPENDENT INVESTIGATION REPORT – PART II|work=wada-ama.org|date= 9 December 2016}}</ref><ref name=NYT161209>{{chú thích báo |url= https://www.nytimes.com/2016/12/09/sports/russia-doping-mclaren-report.html |title=Russia's Doping Program Laid Bare by Extensive Evidence in Report |work= The New York Times |first= Rebecca R. |last= Ruiz |date= 9 December 2016 }}</ref><ref name=Guardian161209>{{chú thích báo |url= https://www.theguardian.com/sport/live/2016/dec/09/mclaren-report-into-doping-in-sport-part-two-live |title= McLaren report: more than 1,000 Russian athletes involved in doping conspiracy |work= The Guardian |first= Lawrence |last= Ostlere |date= 9 December 2016 }}</ref><ref>{{chú thích báo |url= https://apnews.com/8be9cb7fcb5b4d65b1031597bb9f9e5e/Emails-show-how-Russian-officials-covered-up-mass-doping |title= Emails show how Russian officials covered up mass doping |first= James |last= Ellingworth |work= [[Associated Press]] |date= 13 December 2016 |archive-url= https://web.archive.org/web/20161214061329/https://apnews.com/8be9cb7fcb5b4d65b1031597bb9f9e5e/Emails-show-how-Russian-officials-covered-up-mass-doping |archive-date= 14 December 2016 |url-status=live }}</ref>.

[[Khúc côn cầu trên băng]] là môn thể thao thế mạnh của Nga. Mặc dù bộ môn này chỉ được giới thiệu trong thời kỳ Xô viết, đội tuyển khúc côn cầu trên băng của Liên Xô đã giành chiến thắng tại hầu hết các kì Thế vận hội và các giải vô địch thế giới mà họ tham dự.

[[Bóng đá]] là môn thể thao phổ biến nhất ở nước Nga ngày nay. [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô]] đã trở thành nhà vô địch châu Âu đầu tiên khi lên ngôi tại [[Euro 1960]]. Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô cũng đã lọt vào chung kết Euro 1988 nhưng đã để thua đội tuyển [[Hà Lan]] với tỉ số 0-2. Xuất hiện trong bốn kỳ World Cup liên tiếp từ năm 1958 đến 1970, [[Lev Yashin]] của đội tuyển bóng đá Liên Xô được coi là một trong những thủ môn xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá, ông cũng nằm trong Đội hình xuất sắc nhất lịch sử [[World Cup]] của [[FIFA]] <ref name="FIFA">[https://www.fifa.com/classicfootball/players/player=174638/ "Yashin, the impregnable Spider"] {{Webarchive|url=https://archive.today/20131128022620/http://www.fifa.com/classicfootball/players/player=174638/ |date = ngày 28 tháng 11 năm 2013}}. FIFA. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013</ref>. Liên Xô giành HCV môn bóng đá nam tại các kỳ thế vận hội năm 1956 và 1988. Các câu lạc bộ bóng đá Nga [[P.F.K. CSKA Moskva|CSKA Moskva]] và [[F.K. Zenit Sankt Peterburg|Zenit Sankt Peterburg]] đã giành [[cúp UEFA]] vào năm 2005 và 2008. Một số CLB bóng đá nổi tiếng khác của Nga gồm có [[Spartak Moscow|Spartak Moskva]], [[Lokomotiv Moscow|Lokomotiv Moskva]], [[Dynamo Moscow|Dynamo Moskva]] và [[Rubin Kazan]]. [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga]] đã lọt vào bán kết [[Euro 2008]] trước khi thua nhà vô địch [[Tây Ban Nha]] với tỉ số 0–3.

Kể từ khi kết thúc thời Xô Viết, [[quần vợt]] đã trở nên phổ biến tại Nga và Nga đã sản sinh một số tay vợt nổi tiếng, chẳng hạn [[Maria Sharapova]]. Trong [[võ thuật]], Nga là nước khai sinh ra môn thể thao [[Sambo]] cũng như là quê hương của nhiều [[võ sĩ]] nổi tiếng như [[Fedor Emelianenko]]. [[Cờ vua]] là một trò tiêu khiển phổ biến rộng rãi ở Nga; một số kỳ thủ Nga nổi tiếng là [[Mikhail Botvinnik]], [[Garry Kasparov]].

Nga là nước chủ nhà [[World Cup 2018]]. Đây là kỳ [[World Cup]] bóng đá đầu tiên được tổ chức ở một quốc gia [[Đông Âu]]. [[Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga]] đã lọt được vào vòng tứ kết ở giải đấu này.

==Ngày lễ==

* [[Năm mới|Ngày năm mới]], 1 tháng 1
* [[Giáng sinh|Giáng sinh chính thống]], ngày 7 tháng 1
* [[Lễ hội Maslenitsa]], vào tháng 2 hoặc tháng 3, vào tuần trước của [[Mùa Chay (Kitô giáo)|Mùa Chay]] (theo [[Lịch Julian]])
* [[Ngày quốc tế phụ nữ]], 8 tháng 3
*[[Ngày Quốc tế Lao động|Ngày quốc tế lao động]], 1 tháng 5
* [[Phục sinh|Phục sinh chính thống]], vào mùa xuân sau [[Mùa Chay (Kitô giáo)|Mùa Chay]] (theo [[Lịch Julian]])
* [[Ngày chiến thắng (9 tháng 5)|Ngày Chiến thắng]], ngày 9 tháng 5 (ngày kỷ niệm chiến thắng trước [[Đức Quốc xã]] trong cuộc [[Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại]]. Một cuộc duyệt binh quân sự khổng lồ được tổ chức vào ngày này hàng năm trên [[Quảng trường Đỏ]] tại Moskva).
* Ngày của bảng chữ cái và văn hóa Slavic, ngày 24 tháng 5
* [[Ngày nước Nga]], ngày 12 tháng 6
* [[Đêm Kupala|Ngày Ivan Kupala]], ngày 7 tháng 7
* [[Ngày Hải quân (Nga)|Ngày Hải quân]], chủ nhật cuối cùng của tháng Bảy (lễ kỷ niệm lớn bao gồm diễu hành hải quân ở [[St Petersburg]] và [[Vladivostok]])
* [[Ngày đoàn kết toàn dân]], ngày 4 tháng 11
* [[Ngày người bảo vệ Tổ quốc]], ngày 23 tháng 2

==Các biểu tượng==
[[Tập tin:Russian-Matroshka.jpg|240px|nhỏ|phải|Búp bê Matryoshka là một biểu tượng rất nổi tiếng của Nga]]

Biểu tượng nhà nước của Nga là một con đại bàng hai đầu [[Byzantine]] kết hợp với hình ảnh của [[Thánh George]], đây là biểu tượng xuất hiện trên [[quốc huy]] của Nga. [[Quốc kỳ Nga|Quốc kỳ của Nga]] là một lá cờ ba sắc được chia thành ba hình chữ nhật có kích thước bằng nhau: màu trắng ở trên cùng, màu xanh ở giữa, và màu đỏ ở dưới cùng. [[Quốc ca Nga]] có cùng giai điệu với [[Quốc ca Liên Xô|Quốc ca của Liên Xô]], mặc dù lời bài hát có sự khác biệt. Khẩu hiệu quốc gia có từ thời Đế quốc Nga là ''Thiên Chúa ở bên chúng ta'' và khẩu hiệu quốc gia từ thời Liên Xô là ''[[Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại!]]'' hiện không còn được sử dụng nữa và vẫn chưa có khẩu hiệu nào mới để thay thế. Biểu tượng [[búa liềm]] và [[quốc huy Liên Xô]] vẫn được nhìn thấy ở một số thành phố của Nga, thường là ở các công trình kiến trúc cũ. Biểu tượng [[Sao Đỏ|ngôi sao đỏ]] từ thời [[Xô viết]] cũng dễ bắt gặp, thường là xuất hiện trên các thiết bị quân sự hoặc các đài tưởng niệm chiến tranh. Biểu ngữ đỏ tiếp tục được vinh danh, đặc biệt là Biểu ngữ Chiến thắng năm 1945.

[[Búp bê Matryoshka]] là một [[biểu tượng]] nổi tiếng của Nga. [[Điện Kremli]] và [[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily|nhà thờ thánh Vasily]] ở [[Moskva]] là những biểu tượng kiến trúc của Nga. [[Cheburashka]] là linh vật của các đội Olympic quốc gia Nga. [[Maria|Thánh Maria]], [[Nicôla thành Myra|Thánh Nikolai]], [[Anrê Tông đồ|Thánh Andrei]], [[Thánh George|Thánh Georgiy]], [[Aleksandr Yaroslavich Nevsky|Thánh Alexander Nevsky]], [[Thánh Sergius xứ Radonezh]] và [[Thánh Seraphim xứ Sarov]] là những vị thánh bảo trợ của Nga. Hoa cúc (''chamomile'') là quốc hoa, còn cây [[bạch dương]] là quốc cây của Nga. [[Gấu Nga]] là quốc thú và là động vật biểu tượng của nước Nga, mặc dù trên thực tế biểu tượng này được bắt nguồn từ phương Tây và mới chỉ được [[người Nga]] chấp nhận gần đây. Nhân cách hóa dân tộc Nga là [[Mẹ Nga]] (''Mother Russia''), tương đương với ''Uncle Sam'' của [[Hoa Kỳ]].

== Các vấn đề xã hội ==
=== Tình trạng tội phạm ===
Nước Nga là một trong những nước có làn sóng [[tội ác|tội phạm]] cao trên thế giới. Tỷ lệ giết người ở Nga cao gấp bốn lần so với ở [[Hoa Kỳ|Mỹ]].<ref>Information of Russia by Ruth Jenkkins, page 52 and 53</ref> Vào năm [[2001]], 33.500 người đã bị giết hại. Tổng cộng, vào năm [[2011]], có hơn 3 triệu tội phạm được báo cáo. Từ [[trộm cắp]] thông thường đến [[tham nhũng]], [[cướp]] và [[buôn lậu]] đã khiến làn sóng tội phạm ngày càng tăng. Mặc dù [[chính phủ Nga]] đã cam kết mạnh tay với [[tội ác|tội phạm]], tuy nhiên hành động này vẫn chưa đem lại hiệu quả gì lớn. Theo thống kê của Văn phòng Tội phạm và Ma túy của [[Liên Hợp Quốc]], tỉ lệ giết người cố ý ở Nga vào năm [[2016]] là 10.82/100.000, cao gấp đôi so với [[Hoa Kỳ]] (5.8/100.000) và cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của toàn thế giới (6.2/100.000) <ref name=UNODC>{{chú thích web|title=UNODC Statistics Online|url=https://dataunodc.un.org/crime/intentional-homicide-victims|publisher=United Nations Office On Drugs and Crime|access-date =12 May 2018}}".</ref>

Hàng giả cũng là một vấn đề khác gây đau đầu cho các nhà chức trách. [[Chính phủ Nga]] ước tính đến 90% hàng hóa bán lưu thông đều không rõ nguồn gốc rõ ràng. Các thiết bị điện tử chủ yếu được nhập khẩu bất hợp pháp từ [[Đông Nam Á]] còn đồ chơi nhập từ [[Trung Quốc]]. Còn [[thực phẩm]], [[Dược phẩm|thuốc]], [[Trang phục|quần áo]] và [[CD|băng đĩa]] thường có nguồn gốc nội địa. [[Thuốc giả]] và [[rượu giả]] khiến người tiêu dùng bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Hằng năm, hàng ngàn người Nga thiệt mạng do uống phải các [[Hóa chất|chất hóa học]] chết người làm giả thành [[vodka|rượu vodka]].<ref>Problems of USSR, page 101</ref>

=== Khoảng cách giàu - nghèo ===
Tình trạng cách biệt giàu nghèo đang tăng lên. Nhiều [[người Nga]] sống trong những căn nhà xây từ thời Xô Viết nay đã xuống cấp. Một điều tra vào năm ngoái của Hiệp hội các kỹ sư Nga cho biết: 20% người ở thành phố không có nước nóng, 12% không có hệ thống sưởi và phải dùng lò sưởi thủ công. Ở các làng quê, tỷ lệ này còn cao hơn. Theo số liệu của [[Ngân hàng Thế giới]] (WB), hiện nay có hơn 15 triệu người Nga (khoảng 11% dân số) sống dưới mức 150 USD/người/tháng.<ref>[http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/nga-du-dinh-chi-20-ti-usd-cho-world-cup-2018-20140714085150204.htm Nga dự định chi 20 tỉ USD cho World Cup 2018<!-- Bot generated title -->]</ref>

=== Tham nhũng ===
[[Tham nhũng ở Nga]] cũng được coi là một vấn đề nghiêm trọng <ref name="CPI2015">{{chú thích web|url=http://www.transparency.org/cpi2014/results|title=Corruption Perceptions Index 2014|publisher=Transparency International|access-date=ngày 4 tháng 12 năm 2015|archive-date=2015-12-02|archive-url=https://web.archive.org/web/20151202072021/http://www.transparency.org/cpi2014/results|url-status=dead}}</ref> tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả hành chính công,<ref name="Suhara">{{chú thích web | url=https://src-h.slav.hokudai.ac.jp/sympo/03september/pdf/M_Suhara.pdf | title=Corruption in Russia: A Historical Perspective | access-date = ngày 4 tháng 12 năm 2015 | author=Suhara, Manabu | url-status=dead | archive-url=https://web.archive.org/web/20160304192618/https://src-h.slav.hokudai.ac.jp/sympo/03september/pdf/M_Suhara.pdf | archive-date=ngày 4 tháng 3 năm 2016 | df=mdy-all }}</ref><ref>{{chú thích web|title = Russia lost 4 billion dollars on unfavorable state procurement contracts in the last year|url = https://meduza.io/en/news/2015/12/07/russia-lost-4-billion-dollars-on-unfavorable-state-procurement-contracts-in-the-last-year|website = Meduza|access-date = ngày 7 tháng 12 năm 2015 |language = en-US}}</ref> thực thi pháp luật <ref>{{chú thích web | url=http://www.economist.com/node/15731344 | title=Cops for hire | publisher=Economist | date=2010 | access-date = ngày 4 tháng 12 năm 2015}}</ref>, [[Y tế|chăm sóc sức khỏe]] <ref>{{chú thích web | url=http://www.iza.org/conference_files/worldb2010/zelenska_t5300.pdf | title=Corruption in Russian Health Care: The Determinants and Incidence of Bribery | date=2010 | access-date = ngày 4 tháng 12 năm 2015 |author1=Klara Sabirianova Peter |author2=Tetyana Zelenska}}</ref> và [[giáo dục]] <ref>{{chú thích web | url=http://ethics.harvard.edu/blog/corruption-universities-common-disease-russia-and-ukraine | title=Corruption at Universities is a Common Disease for Russia and Ukraine | publisher=Harvard University | date=2014 | access-date = ngày 4 tháng 12 năm 2015 |author1=Elena Denisova-Schmidt |author2=Elvira Leontyeva |author3=Yaroslav Prytula}}</ref>. Theo bảng xếp hạng năm 2016 về [[Chỉ số nhận thức tham nhũng]] của [[Tổ chức Minh bạch Quốc tế]], Nga xếp thứ 131 trên tổng số 176 quốc gia với số điểm là 29 <ref>{{chú thích báo|url=http://www.transparency.org/news/feature/corruption_perceptions_index_2016|title=Corruption Perceptions Index 2016|last=e.V.|first=Transparency International|work=www.transparency.org|access-date=ngày 24 tháng 3 năm 2017|archive-date=2017-01-30|archive-url=https://archive.today/20170130045244/http://www.transparency.org/news/feature/corruption_perceptions_index_2016|url-status=dead}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.newsland.ru/news/detail/id/580475/ |title=Коррупция в России как система "распилки" ВВП - новость из рубрики Общество, актуальная информация, обсуждение новости, дискуссии на Newsland |publisher=Newsland.ru |date= |access-date = ngày 14 tháng 7 năm 2014}}</ref>.

=== Báo động tình trạng tự tử ===
Nga hiện là một trong những nước có tỉ lệ [[tự tử]] cao nhất thế giới. Theo thống kê của [[WHO]] vào năm 2016, tỉ lệ tự tử ở Nga đứng thứ 3 trên toàn cầu (chỉ sau 2 nước là [[Lesotho]] và [[Guyana]]), với 26,5 vụ trên 100.000 người <ref>{{chú thích web|url=http://apps.who.int/gho/data/node.main.MHSUICIDEASDR?lang=en|title=Suicide rates Data by country|year=2016|publisher=[[World Health Organization]]|access-date =23 September 2018}}</ref>. Năm 2012, tỷ lệ tự tử ở tuổi vị thành niên tại Nga cao gấp ba lần mức trung bình của thế giới <ref>{{chú thích báo|url=https://www.nytimes.com/2012/04/20/world/europe/in-russia-spate-of-teenage-suicides-causes-alarm.html?_r=0|title=A Spate of Teenage Suicides Alarms Russians|last=Kates|first=Glenn|date=19 April 2012 |publisher=The New York Times|access-date =30 January 2013}}</ref>.

=== Khủng bố, đe doạ an ninh ===
Tính từ năm [[2008]] đến năm [[2016]], đã có 1.088 người chết trong các vụ khủng bố tại Nga <ref>([https://www.start.umd.edu/gtd/contact/ globalterrorismdb_0616dist.xlsx] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160710191739/http://www.start.umd.edu/gtd/contact/ |date = ngày 10 tháng 7 năm 2016}})</ref><ref>[[Global Terrorism Database]] ([https://www.start.umd.edu/gtd/contact/ gtd1993_0616dist.xlsx] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160710191739/http://www.start.umd.edu/gtd/contact/|date=ngày 10 tháng 7 năm 2016}}). Truy cập from https://www.start.umd.edu/gtd University of Maryland</ref>, gấp 5 lần so với số lượng người chết trong các vụ khủng bố tại [[Mỹ]] cùng khoảng thời gian (235 người chết) <ref name="globalterrorismdb_0616dist">[[National Consortium for the Study of Terrorism and Responses to Terrorism]]. (2016). [[Global Terrorism Database]] ([https://www.start.umd.edu/gtd/contact/ globalterrorismdb_0616dist.xlsx] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160710191739/http://www.start.umd.edu/gtd/contact/|date=ngày 10 tháng 7 năm 2016}}).</ref><ref name="gtd1993_0616dist">[[National Consortium for the Study of Terrorism and Responses to Terrorism]]. (2016). [[Global Terrorism Database]] ([https://www.start.umd.edu/gtd/contact/ gtd1993_0616dist.xlsx] {{webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160710191739/http://www.start.umd.edu/gtd/contact/|date=ngày 10 tháng 7 năm 2016}}). University of Maryland</ref>.

Một số vụ khủng bố đẫm máu tại Nga kể từ năm 1999 <ref>[https://tuoitre.vn/nhung-vu-khung-bo-tham-khoc-o-nga-1292123.htm Những vụ khủng bố thảm khốc ở Nga ]</ref>

*Tháng 9-1999, Các vụ đánh bom ở những tòa chung cư giết gần 300 người tại [[Moskva]], [[Buynaksk]] và [[Volgodonsk]] trong khoảng thời gian từ ngày 4-9 tới 16-9. Các phần tử cực đoan [[Chechnya]] được cho đứng sau những vụ này.
*Tháng 10-2002, [[Vụ khủng bố nhà hát Dubrovka Moskva|Nhà hát Dubrovka]] tại Moskva bị 40 tới 50 tay súng bao vây. [[Quân đội Nga]] vào cuộc, kết quả ít nhất 170 người chết bao gồm 130 trong số gần 1.000 con tin.
*Tháng 2-2004, Một vụ đánh bom liều chết ở [[tàu điện ngầm]] tại [[Moskva]] làm 41 người chết và hơn 100 người bị thương.
*Tháng 5-2004, vụ tấn công liều chết ở [[sân vận động Grozny]], [[Cộng hòa Chechnya]] thuộc Nga, đã giết 24 người trong đó có [[Akhmad Kadyrov]], cha của lãnh đạo [[Chechnya]] [[Ramzan Kadyrov]].
*Tháng 8-2004, thêm một vụ khác tại [[Sân bay quốc tế Domodedovo|sân bay Domodedovo]]. Cả 90 hành khách trên chuyến bay bị tấn công đã thiệt mạng. Cơ quan chức năng sau đó phát hiện hai người phụ nữ thực hiện vụ tấn công liều chết ấy đã hối lộ để lên máy bay chỉ với 1.000 rúp, tương đương 34 USD vào lúc đó. Và vài ngày sau, một vụ tấn công khác ở tàu điện ngầm tại [[Moskva]] khiến 10 người thiệt mạng.
*Tháng 9-2004 được xem là một trong những cuộc tấn công gây sốc nhất lịch sử an ninh Nga đương đại, khi các tay súng đột nhập vào trường học ở [[Beslan]], thuộc tỉnh [[Bắc Ossetia]]. Những tay súng bắt học sinh, giáo viên và phụ huynh làm con tin. Sau nhiều ngày bế tắc, quân đội Nga tràn vào trường học dẫn tới cái chết của hơn 300 người, trong đó có nhiều trẻ em.
*Tháng 10-2005, các tay súng [[Hồi giáo]] thực hiện cuộc tấn công tại thành phố [[Nalchik]], lãnh thổ Kabardino-Balkaria thuộc Nga, gần [[Chechnya]]. Cuộc giao tranh tại tòa nhà của lực lượng an ninh Nga làm hơn 100 người chết, bao gồm thường dân.
*Tháng 11-2009, tuyến tàu cao tốc từ [[Moskva]] đi [[St Petersburg]] bị đánh bom khiến 28 người thiệt mạng và 130 người bị thương. Cảnh sát bắt giam 10 người, trong đó có chín người thuộc một gia đình ở khu vực [[Cộng hòa Ingushetia]] tự trị, ở [[Vùng liên bang Bắc Kavkaz|Bắc Kavkaz]].
*Tháng 3-2010, hai vụ đánh bom liều chết ở tàu điện ngầm tại thủ đô [[Moskva]] làm 40 người thiệt mạng. Quan chức Nga mô tả đó là vụ tấn công khủng bố chết chóc và tinh vi nhất ở Nga trong vòng 6 năm. Đặc biệt, một trong các địa điểm bị nhắm tới nằm sát tòa nhà của [[Tổng cục An ninh Liên bang Nga]] (FSB).
*Tháng 1-2011, vụ đánh bom liều chết ở [[Sân bay quốc tế Domodedovo|sân bay Domodedovo]] (Moskva) giết chết 37 người và làm 172 người bị thương. Doku Umarov, lãnh đạo nhóm Hồi giáo cực đoan Chechnya có tên Phong trào Tiểu vương quốc Kavkaz nhận trách nhiệm.
*Tháng 12/2013. hai vụ đánh bom trong một ngày nhằm vào hệ thống giao thông công cộng ở thành phố [[Volgograd]] làm tổng cộng 34 người thiệt mạng. Vụ việc này xảy ra chỉ 2 tháng sau một cuộc đánh bom liều chết khác cũng ở [[Volgograd]] trước thềm [[Thế vận hội Mùa đông]] năm 2014.

== Tương lai ==
Nga và [[Belarus]] đang đàm phán để thống nhất thành một [[nhà nước liên bang]] Nga – Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm [[1997]] và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.<ref>[https://archive.today/20130502153423/www.vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2007/12/3B9FD414/ vnexpress]</ref>

== Xem thêm ==
* [[Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga|Quân đội Nga]]
* [[Các ngày lễ ở Nga]]
* [[Tổng thống Nga]]

== Ghi chú ==
{{ghi chú}}

== Tham khảo ==
{{tham khảo|30em}}

== Đọc thêm ==
* ''The New Columbia Encyclopedia'', Col.Univ.Press, 1975

== Liên kết ngoài ==
{{sisterlinks}}
{{thể loại Commons|Nga}}
{{Wikivoyage|Nga}}
* {{TĐBKVN|21468}}
* {{Britannica|513251|Nga}}
=== Các nguồn của chính quyền ===
* [http://www.duma.ru/ Duma] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140401074830/http://www.duma.ru/ |date = ngày 1 tháng 4 năm 2014}} - Trang Web chính thức của hạ nghị viện (bằng tiếng Nga)
* [http://www.russianembassy.org/ Đại sứ quán Nga tại Hoa Kỳ]
* [https://archive.today/20120805045016/www.council.gov.ru/eng/index.html Hội đồng liên bang] - Trang Web chính thức của thượng nghị viện
* [http://www.gov.ru/ Gov.ru] - Cổng chính thức của chính phủ (bằng tiếng Nga)
* [https://web.archive.org/web/20030908005515/http://www.kremlin.ru/eng/ Kremli] - Trang Web chính thức của tổng thống (bằng tiếng Anh)
* [http://www.fccland.ru/kart.htm Trang Web chính thức của trung tâm địa chính Liên bang Nga - Bản đồ hành chính của Nga (Chú giải bằng tiếng Nga)] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20040402171934/http://www.fccland.ru/kart.htm |date = ngày 2 tháng 4 năm 2004}}
* [https://archive.today/20121213071747/www.eia.doe.gov/emeu/cabs/russia.html Công nghiệp và các nguồn năng lượng của Nga, theo Cục năng lượng Hoa Kỳ]
* [https://web.archive.org/web/20020616173442/http://www.bof.fi/bofit/fin/4ruec/index.stm Kinh tế Nga: Ngân hàng Phần Lan]
* [https://web.archive.org/web/19961125135329/http://travel.state.gov/russia.html U.S. Thông tin từ Cục lãnh sự Hoa Kỳ: Nga]
* [http://webcam.deili.info/en,1,3 Webcam về nước Nga] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20051027075953/http://webcam.deili.info/en,1,3 |date = ngày 27 tháng 10 năm 2005}}
* [http://www.flickr.com/photos/tessekkur/sets/72157622223977430/ Photos of Russia]

=== Thông tin chung ===
* [http://news.bbc.co.uk/2/hi/europe/country_profiles/1102275.stm Sơ lược về quốc gia theo BBC]
* [http://www.cia.gov/cia/publications/factbook/geos/rs.html Dữ liệu về Nga theo CIA] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20070509142054/https://www.cia.gov/cia//publications/factbook/geos/rs.html |date = ngày 9 tháng 5 năm 2007}}
* [https://web.archive.org/web/20050415154515/http://www.austausch.org/en/ Trao đổi Nga-Đức] Tổ chức phi chính phủ (NGO) kết nối những người tình nguyện tới NGO ở Nga (không chỉ là người Đức)
* [http://www.gksoft.com/govt/en/ru.html Các liên kết tới chính quyền]
* [https://web.archive.org/web/20040830200053/http://geocities.com/deweytextsonline/isr.htm Ấn tượng về nước Nga Xô viết, theo John Dewey]
* [https://web.archive.org/web/20010428200617/http://www.slavweb.com/eng/server-e-fr1.html Các nguồn trên Internet để nghiên cứu về Nga]
* [https://web.archive.org/web/20011119184658/http://www.cdi.org/russia/johnson/default.cfm Danh mục các lưu trữ về Nga của Johnson]
* [http://numismondo.com/pm/rus/ Tiền giấy của Nga] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20050727090020/http://numismondo.com/pm/rus/ |date = ngày 27 tháng 7 năm 2005}}
* [http://HavenWorks.com/world/russia/ Tin tức nước Nga]
* [https://web.archive.org/web/20031213012115/http://baikaland.tripod.com/russia/right.html Các vùng liên bang của Nga (chú giải bằng tiếng Anh)]
* [http://www.russiajournal.com/ Tạp chí Nga] - Nguồn tin và phân tích độc lập từ Nga.
* [http://english.pravda.ru/ Phiên bản tiếng Anh của báo Pravda (Sự thật)]
* [http://rian.ru/ Trang thông tấn Nga RIA Novosti] - {{ru icon}}
* [http://en.rian.ru/ Trang thông tấn Nga RIA Novosti] - {{en icon}}
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
{{Chủ đề Liên Bang Nga}}
{{Navboxes|title=Bài viết liên quan
|list1=
{{Châu Âu}}
{{Quốc gia Châu Á}}
{{Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS)}}
{{BRIC}}
{{Quốc gia Hợp tác Kinh tế biển Đen}}
{{Quốc gia giáp Biển Đen}}
{{Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc}}
{{Hội nghị cấp cao Đông Á}}
{{Đề tài châu Á}}
{{Tổ chức Hợp tác Thượng Hải}}
{{WTO}}
{{G8}}
{{ASEM}}
{{OSCE}}
{{Tổ chức Hợp tác Hồi giáo}}
{{Ủy hội châu Âu}}
}}

[[Thể loại:Nga| ]]
[[Thể loại:Quốc gia BRICS]]
[[Thể loại:Quốc gia E7]]
[[Thể loại:Thành viên G20]]
[[Thể loại:Quốc gia thành viên Cộng đồng các Quốc gia Độc lập]]
[[Thể loại:Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc]]
[[Thể loại:Khởi đầu năm 1547]]
[[Thể loại:Khởi đầu năm 1991 ở châu Âu]]
[[Thể loại:Quốc gia châu Á]]
[[Thể loại:Quốc gia Kitô giáo]]
[[Thể loại:Quốc gia châu Âu]]
[[Thể loại:Quốc gia Đông Âu]]
[[Thể loại:Cộng hòa liên bang]]
[[Thể loại:Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu]]
[[Thể loại:Quốc gia Bắc Á]]
[[Thể loại:Quốc gia Đông Bắc Á]]
[[Thể loại:Nước cộng hòa thuộc Liên Xô]]
[[Thể loại:Quốc gia và vùng lãnh thổ nói tiếng Nga]]

Latest revision as of 03:00, 24 May 2024